Kết quả kiểm toán chuyên đề việc thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư tại khu kinh tế, khu công nghiệp giai đoạn 2022-2024 tại thành phố Hải Phòng

08/09/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(sav.gov.vn) – Kết quả kiểm toán cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư tại khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN) giai đoạn 2022-2024 của thành phố Hải Phòng còn một số hạn chế.

Thành phố Hải Phòng. Ảnh: Sưu tầm

Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán Chuyên đề việc thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư tại KKT, KCN giai đoạn 2022-2024 tại thành phố Hải Phòng.

Theo kết quả kiểm toán, tính đến ngày 18/5/2025, thành phố Hải Phòng đang quản lý và triển khai hoạt động 2 KKT, 18 KCN, 4 KCN mới được phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2025, với tỷ lệ lấp đầy bình quân 63%.

Công tác quy hoạch, phát triển hệ thống KKT, KCN được xây dựng trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy định hiện hành.

UBND thành phố Hải Phòng đã xây dựng phương án, kế hoạch phát triển KKT, KCN để triển khai thực hiện; tích cực xúc tiến thu hút nhà đầu tư.

Hoạt động của KKT, KCN đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của thành phố. 

Tổng số vốn đầu tư hạ tầng KKT, KCN đến hết năm 2024 là 926 triệu USD. Giai đoạn 2022-2024, 712 doanh nghiệp đang hoạt động đạt tổng giá trị xuất khẩu là 81.655 triệu USD.

Tổng số lao động trong KKT, KCN đến 31/12/2024 là 215.368 lao động. Giai đoạn 2022-2024, KKT và các KCN đã tạo ra 27.096 việc làm mới, bình quân là 9.032 việc làm/năm; thu nhập trung bình của người lao động là 11,04 triệu đồng/người/tháng, bằng 111% so với năm 2021. 

Thu hút đầu tư nước ngoài chưa đạt chỉ tiêu đề ra

Kết quả kiểm toán cho thấy, thu hút đầu tư nước ngoài chưa đạt chỉ tiêu đề ra; một số KCN thu hút vốn đầu tư thấp hơn chỉ tiêu nhà đầu tư đề xuất như: (1) Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ (Khu 1); (2) KCN Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A. Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lợi nhuận trên tổng số 712 doanh nghiệp đang hoạt động trong KKT, KCN còn thấp (năm 2022 là 43,5%, năm 2023 là 45,7%, năm 2024 là 48,2%). 

03 KCN với tổng diện tích 1.689,22 ha chưa có nhà đầu tư thứ cấp gồm: (1) KCN Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3, thành lập năm 2014, diện tích 526,81 ha, diện tích đất cho công nghiệp và dịch vụ là 410,47ha; (2) KCN và khu phi thuế quan Xuân Cầu, thành lập năm 2021 với diện tích 751,95 ha, diện tích đất cho công nghiệp và dịch vụ là 584,79 ha; (3) KCN Tiên Thanh thành lập năm 2022 với diện tích 410,46 ha, diện tích đất cho công nghiệp và dịch vụ là 289,65 ha. 

02 KCN thành lập từ năm 2009 nhưng tỷ lệ lấp đầy còn dưới 50% gồm: (1) Khu công nghiệp Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A có tỷ lệ lấp đầy 27%; (2) Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ (Khu I) có tỷ lệ lấp đầy 45%. 

Một số KCN thu hút lao động thấp hơn chỉ tiêu thu hút đầu tư dự kiến chẳng hạn như: (1) Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ (Khu 1) thu hút đạt 2% dự kiến; (2) KCN Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A thu hút đạt 13,5% dự kiến; ...
Nguyên nhân là do địa phương tập trung thu hút lao động vào lĩnh vực công nghệ cao, chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng cao nhưng hạn chế thâm dụng lao động.

Bên cạnh đó, số lượng nhà đầu tư thứ cấp được cấp Giấy chứng nhận đầu tư có cam kết chuyển giao công nghệ còn ít (17/831=2% số được cấp Giấy chứng nhận đầu tư). 

Lượng cung dự kiến về nhà ở cho công nhân thấp hơn số lượng lao động ngoại tỉnh làm việc tại các KKT, KCN trên địa bàn thành phố (cung dự kiến đáp ứng cho 24.358 lao động trên số lao động người nước ngoài 5.186 và 71.604 lao động ngoại tỉnh). 

Một số KCN hệ thống xử lý nước thải tập trung có công suất chưa đạt so với công suất dự kiến xây dựng tại Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Cụ thể, Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ (Khu 1) đã xây dựng 01 modul với công suất 2.500 m3/ngày/đêm, đạt 27,2% công suất theo dự kiến xây dựng (9.200 m3/ngày/đêm). KCN An Dương có công suất trạm xử lý nước thải đang hoạt động bằng 45% công suất dự kiến (5.000m3/ngày đêm). 

Kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ, tiến độ xây dựng hạ tầng một số KCN còn chậm: (1) Khu công nghiệp Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A: Đến hết năm 2024 Chủ đầu tư đã san lấp được khoảng 390ha (tương đương 76% tổng diện tích KCN); xây dựng hạ tầng của KCN mới chỉ đạt 45% so với tiến độ tại giấy chứng nhận đầu tư; (2) Khu công nghiệp Tiên Thanh: Dự kiến khởi công quý IV năm 2022, khởi công vào tháng 4/2025; (3) KCN Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3: Đang trong quá trình san lấp mặt bằng (mới đạt 16% tổng diện tích KCN); (4) KCN An Dương có tỷ lệ xây dựng hạ tầng đạt 95% so với tiến độ ghi trong giấy chứng nhận đầu tư. 

Việc thực hiện chính sách, ưu đãi đầu tư đối với các KKT, KCN giai đoạn 2022-2024 còn hạn chế

Theo kết quả kiểm toán, các doanh nghiệp hoạt động trong KKT, KCN trên địa bàn thành phố Hải Phòng được hưởng chính sách ưu đãi về thuế (Thuế TNDN, thuế nhập khẩu và miễn tiền thuê đất) tổng số tiền 13.373.053 triệu đồng. Các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN được hưởng chính sách ưu đãi về thuế (thuế TNDN và miễn tiền thuê đất) tổng số tiền 308.826 triệu đồng. 

Việc lập danh mục các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố chưa xác định cụ thể quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 4 Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ, với diện tích tối thiểu 140,7ha. 

Công tác tổng hợp, xây dựng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng kết nối ngoài hàng rào KKT, KCN của Sở KH&ĐT chưa đánh giá đầy đủ khả năng thực hiện dẫn đến cuối năm phải điều chỉnh giảm kế hoạch; không xây dựng nhu cầu vốn cho dự án chuyển tiếp thực hiện theo tiến độ, dự án dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch; xây dựng nhu cầu kế hoạch vốn năm 2022 cho dự án ĐTXD tuyến đường gom KCN Tràng Duệ chưa ưu tiên thu hồi các khoản vốn ứng trước theo nguyên tắc ưu tiên bố trí vốn; không tổng hợp nhu cầu vốn của 03 dự án chuyển tiếp, dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch do UBND huyện Cát Hải làm chủ đầu tư. 

Công tác phân bổ vốn chưa ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án chuyển tiếp dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch.

Việc triển khai một số dự án hạ tầng ngoài KCN chưa đồng bộ với việc triển khai xây dựng KCN; công tác giải phóng mặt bằng, bàn giao đất còn vướng mắc dẫn đến ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng hạ tầng và hoạt động của các nhà đầu tư thứ cấp: (1) KCN Tiên Thanh chậm triển khai tuyến đường giao thông đối ngoại, khu tái định cư; (2) KCN Nam Đình vũ (Khu I) chậm triển khai tuyến đê biển Nam Đình Vũ; (3) KCN Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3 chậm giải phóng mặt bằng; (4) KCN Vsip chậm giải phóng mặt bằng; (5) KCN Xuân Cầu có phần diện tích đất và biển để thực hiện Dự án đang chồng lấn với khu dự phòng phát triển tương lai thuộc Dự án Đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng. 

Việc ban hành quyết định miễn tiền thuê đất của cơ quan quản lý còn trường hợp chậm so với quy định; chưa tính tiền thuê đất phải nộp đối với nhà đầu tư chậm làm hồ sơ miễn tiền thuê; công tác thanh tra, kiểm tra thuế, quản lý nợ và thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế còn hạn chế. 

Ngoài ra, kết quả kiểm toán chọn mẫu thủ tục hành chính về đất đai (07 mẫu thủ tục miễn giảm tiền thuê đất) cho thấy 7/7 mẫu có thời gian thực hiện các thủ tục hành chính bị chậm so với quy định tại khoản 8 Điều 8 Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ. 

Nhiều bất cập về cơ chế, chính sách

Kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ một số quy định của thành phố Hải Phòng không còn phù hợp.

Cụ thể, tại điểm c khoản 1 Điều 5, điểm d khoản 2 Điều 5, điểm c khoản 1,2 Điều 6 Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 20/4/2020 của UBND thành phố Hải Phòng' quy định “... Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng xác định số tiền thuê đất phải nộp và thông báo đến người sử dụng đất”, tuy nhiên tại khoản 1 Điều 42 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2024 quy định “Căn cứ hồ sơ địa chính về thuê đất (thông tin diện tích, vị trí, mục đích, hình thức thuê đất, thời hạn thuê đất); quyết định giá đất, đơn giá cho thuê đất xây dựng công trình ngầm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Bảng giá đất, mức tỷ lệ (%) để tính tiền thuê đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định; cơ quan thuế tổ chức việc tính, thu, nộp tiền thuê đất. 

Tại điểm d Mục 4 Chương II Quyết định số 17/2023/QĐ-UBND ngày 21/6/2023 của UBND thành phố Hải Phòng ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng “Kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng đất của doanh nghiệp, báo cáo, đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố phương án xử lý đối với những trường hợp có hành vi vi phạm về quản lý, sử dụng đất đai, chậm đưa đất vào sử dụng gây lãng phí tài nguyên theo quy định”; trong khi Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ không quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý khu kinh tế trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng đất của doanh nghiệp (Điều 69 Nghị định 35/2022/NĐ-CP); khoản 3 Điều 101 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ hướng dẫn Luật Đất đai năm 2024, việc kiểm tra, giám sát thực tế việc quản lý, sử dụng đất đai thuộc UBND các cấp. 

Hiện nay việc xác định thời hạn hoạt động của dự án đầu tư khu công nghiệp được xác định theo khoản 1 và 2 Điều 44 Luật Đầu tư năm 2020 (quy định thời gian “không quá” 50 năm hoặc 70 năm) và tại khoản 3 Điều 27 Nghị định 31/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 26/03/2021 hướng dẫn Luật Đầu tư quy định “Căn cứ mục tiêu, quy mô, địa điểm, yêu cầu hoạt động của dự án đầu tư, cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan đăng ký đầu xem xét, quyết định thời hạn hoạt động, điều chỉnh thời hạn hoạt động của dự án đầu theo quy định tương ứng tại các khoản 1 và 2 Điều này”, như vậy, Luật và văn bản hướng dẫn chưa có hướng dẫn chi tiết về cách xác định thời gian hoạt động của dự án đầu tư để làm cơ sở quyết định thời hạn hoạt động và tương ứng có căn cứ xác định thời gian dự án được hưởng ưu đãi đầu tư phù hợp kể từ khi dự án đã hoàn đủ vốn đầu tư. Thực tế tại Ban quản lý KKT giai đoạn 2022-2024 cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với 02 dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp như sau: (1) Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư 2333875823 ngày 06/12/2021 xác định thời gian hoạt động của dự án là 50 năm; theo số liệu phân tích hiệu quả tài chính tại Hồ sơ dự án, thời gian hoàn vốn của dự án là 20 năm 07 tháng; thời gian được hưởng ưu đãi miễn tiền thuê đất là toàn bộ thời gian dự án (50 năm); (2) Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư 3680351818 ngày 17/6/2022 xác định thời gian hoạt động của dự án là 50 năm; theo số liệu phân tích hiệu quả tài chính tại hồ sơ dự án thì Thời gian thu hồi vốn (T) của dự án là 17 năm (đến thời điểm kiểm toán đơn vị chưa làm hồ sơ miễn, giảm tiền thuê đất). Việc xác định thời gian hoạt động của dự án đầu tư tại ban QLKKT không có thuyết minh cơ sở, căn cứ tính mà chỉ căn cứ đề nghị của nhà đầu tư về số năm hoạt động của dự án. 

Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20-8-2019 “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”; Nghị quyết Đại hội XIII (2021) của Đảng nhấn mạnh “ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sử dụng lao động có kỹ năng; đầu tư vào những ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển; có liên kết, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu”. Đồng thời Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 ngày 19/6/2017, trong đó ưu tiên và đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ tại khoản 3, khoản 5, Điều 3 về các chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về các cam kết, ràng buộc trong việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp nước ngoài khi có hoạt động đầu tư vào thị trường Việt Nam. 

Điểm a khoản 6 Điều 7 Nghị định 35/2022/NĐ-CP quy định “trừ trường hợp lập quy hoạch xây dựng KCN tại khu vực đã có quy hoạch chung xây dựng được phê duyệt hoặc khu công nghiệp phù hợp với quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế đã được phê duyệt thì mới phải lấy ý của các Bộ liên quan đối với đồ án quy hoạch chung xây dựng hoặc đồ án quy hoạch phân khu xây dựng khu công nghiệp...Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Xây dựng đối với khu công nghiệp có mô 200ha trở lên”. Tuy nhiên quy định tại điểm a khoản 2 Điều 25 Nghị định 44/2015/NĐ-CP ngày 06/05/2015 quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lấy ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Xây dựng trước khi phê duyệt đối với các đồ án quy hoạch chung xây dựng khu chức năng đặc thù; các đồ án quy hoạch phân khu xây dựng khu chức năng đặc thù có quy mô trên 200 ha” nhưng không có hướng dẫn xử lý chuyển tiếp. 

Tại điểm d khoảng 3 Điều 68 Nghị định số 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định “Tổ chức, thực hiện thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; cấp, cấp đổi, điều chỉnh, cấp lại, thu hồi giấy phép môi trường đối với dự án đầu trong khu công nghiệp, khu kinh tế”. Tuy nhiên, việc phân cấp, ủy quyền này đang vướng mắc với các quy định tại Điều 35 Luật Bảo vệ Môi trường 2020. Điều 35 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường thuộc: Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh không quy định ủy quyền cho Ban Quản lý KKT, KCN. Việc thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng dẫn đến khó khăn cho việc thực hiện chủ trương “một cửa, tại chỗ”; doanh nghiệp khi phải thực hiện thủ tục về môi trường tại nhiều cơ quan khác nhau sẽ mất thêm thời gian, chi phí, nhân lực thực hiện, giảm sức hút trong thu hút đầu tư. 

Kiến nghị kiểm toán

Từ những phát hiện nêu trên, KTNN kiến nghị UBND thành phố Hải Phòng chỉ đạo:

Các đơn vị có liên quan phối hợp với Sở Tài chính thực hiện rà soát Phương án phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế có đất lấn biển để đảm bảo phù hợp với quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt tại Nghị quyết 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 của Quốc hội. 

Tổ chức đánh giá đầy đủ thực trạng phát triển hệ thống KKT, KCN trên địa bàn, sớm có giải pháp đồng bộ trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KKT, KCN để phát huy hiệu quả các KKT, KCN hiện có; đa dạng hoá loại hình KCN (ưu tiên chuyển đổi, phát triển KCN sinh thái, KCN công nghệ cao thay cho KCN đa ngành nghề). 

Rà soát các dự án đang được triển khai và chưa triển khai tại KKT Đình Vũ Cát Hải để thực hiện theo Quy hoạch chung xây dựng KKT Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng đến năm 2025 đã được phê duyệt, đảm bảo đồng bộ phát huy hiệu quả hoạt động khu kinh tế; có kế hoạch, giải pháp phù hợp để khắc phục tình trạng một số dự án hạ tầng ngoài KCN chưa đồng bộ với việc triển khai xây dựng KCN, từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kết nối và hạ tầng trong KKT, KCN đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. 

Rà soát xác định nguyên nhân 03 KCN với diện tích 1.689,72ha, trong đó có KCN được thành lập từ năm 2014 đến nay chưa có nhà đầu tư thứ cấp (KCN cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3; KCN và khu phi thuế quan Xuân Cầu; KCN Tiên Thanh); trên cơ sở nguyên nhân các KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp như KCN Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A (27%), Khu phi thuế KCN Nam Đình Vũ (Khu 1) (45%), UBND thành phố tiếp tục rà soát khắc phục để có giải pháp thu hút đầu tư phù hợp, sớm phát huy toàn diện hiệu quả của KCN hiện có và tránh lãng phí nguồn lực đất đai, ngân sách nhà nước. 

Kiểm tra việc các trạm xử lý nước thải tập trung chưa đạt công suất dự kiến tại Báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với 02 KCN: Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ (Khu 1); KCN An Dương để đảm bảo thực hiện theo đúng quy định. 

Kiểm tra, xác định nguyên nhân một số KCN có tiến độ xây dựng hạ tầng còn chậm: (1) KCN Nam Đình Vũ (Khu II) - Deep C 2A; (2) KCN Tiên Thanh; (3) KCN Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3; (4) KCN An Dương. 

Khi xây dựng kế hoạch phát triển nhà ở giai đoạn 2026-2030 đánh giá, rà soát nhu cầu nhà ở công nhân để có định hướng phát triển nhà ở cho công nhân phù hợp do theo báo cáo của đơn vị đến nay có 71.604 lao động ngoài tỉnh (không tính lao động nước ngoài), song giai đoạn 2021-2025, diện tích sàn xây dựng nhà xã hội trên toàn thành phố dự kiến mới đáp ứng cho nhu cầu ở của 24.358 người lao động trên toàn thành phố. 

Đánh giá kết quả đạt mức độ chuyển giao công nghệ theo Nghị quyết số 06/NQ/TU ngày 07/4/2022 của Thành ủy Hải Phòng về thu hút vốn FDI theo bốn định hướng lớn trong đó có sự cam kết về chuyển giao công nghệ do giai đoạn 2022-2024 mới có 17 Doanh nghiệp (chiếm 2% các doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đầu tư) đăng ký và được cấp chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ. 

Chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong công tác phân bổ vốn chưa ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án chuyển tiếp dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch; chỉ đạo các đơn vị chấn chỉnh rút kinh nghiệm trong công tác nộp chậm báo cáo quyết toán vốn đầu tư theo niên độ. 

Có giải pháp để đảm bảo thu hút vốn đầu tư hạ tầng KKT, KCN, do đến hết năm 2024 mới đạt 926 triệu USD (bằng 67% so với vốn đăng ký) và 14.640.300 triệu đồng (bằng 50% so với vốn đăng ký). 

Đồng thời, KTNN đề nghị UBND thành phố Hải Phòng xem xét sửa đổi:

Quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5, điểm d khoản 2 Điều 5, điểm c khoản 1, 2 Điều 6 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 20/4/2020 của UBND thành phố Hải Phòng để đảm bảo phù hợp với khoản 1 Điều 42 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2024 của Chính phủ. 

Quy định tại điểm d Mục 4 Chương II Quyết định số 17/2023/QĐ-UBND ngày 21/6/2023 của UBND thành phố Hải Phòng để đảm bảo phù hợp với khoản 3 Điều 101 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ hướng dẫn Luật Đất đai năm 2024. 

UBND thành phố Hải Phòng chỉ đạo việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, kiểm soát kết quả thực hiện của các đơn vị (trường hợp có sai phạm xác định trách nhiệm tập thể cá nhân và xử lý theo đúng quy định của pháp luật) đồng thời các đơn vị tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện của mình đối với các kiến nghị một số nội dung sau: 

Ban quản lý khu kinh tế Hải Phòng:

Chấn chỉnh việc: Tại thời điểm kết thúc kiểm toán chưa xác định và thông báo số tiền thuê đất phải nộp đối Công ty cổ phần Logistics Cát Thành, Công ty Cổ phần Cảng Hải Phòng. 

Đôn đốc, có biện pháp xử lý theo đúng quy định đối với một số nhà đầu tư thực hiện dự án chậm tiến độ so với tiến độ thực hiện đăng ký tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. 

Chấn chỉnh, khắc phục đồng thời kiểm tra, rà soát đối với các dự án có phát sinh bồi thường, giải phóng mặt bằng để xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 35/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 04 năm 2017. 

Chi cục thuế khu vực III (Nay là Thuế Thành phố Hải Phòng):

Chấn chỉnh, khắc phục trong việc: (1) Chưa thực hiện đầy đủ kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế, tiếp tục phân tích rủi ro về thuế đối với NNT chưa được thanh tra, kiểm tra để xây dựng kế hoạch hằng năm, tránh thất thu ngân sách nhà nước; (2) Ban hành quyết định miễn tiền thuê đất cho đơn vị chậm; (3) Thực hiện biện pháp cưỡng chế chậm; (4) Đã triển khai biện pháp thu nợ nhưng chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp cưỡng chế nợ thuế, rà soát để thực hiện đầy đủ các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật;(5) Kiểm tra thuế tại cơ quan thuế chưa thực hiện gửi thư trao đổi thông tin tới NNT; công tác kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế còn chưa cập nhật chi tiết kết quả công việc được phân công trong nhật ký kiểm tra. 

Khi xây dựng Kế hoạch kiểm tra cần lưu ý phân tích rủi ro về thuế đối 151 NNT trong Khu kinh tế, KCN kể từ khi thành lập chưa được thanh kiểm tra trụ sở người nộp thuế, để xây dựng kế hoạch kiểm tra, tránh thất thu NSNN. 

Sở Tài chính Hải Phòng:

Chấn chỉnh, khắc phục trong việc: (1) Công tác tổng hợp nhu cầu vốn, tham mưu phân bổ vốn chưa ưu tiên bố trí đủ vốn cho các dự án chuyển tiếp dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch; (2) Tổng hợp, xây dựng nhu cầu vốn đầu tư chưa đánh giá đầy đủ khả năng thực hiện dẫn đến cuối năm phải điều chỉnh giảm kế hoạch vốn. 

Rà soát khắc phục việc lập danh mục các KCN trên địa bàn thành phố chưa xác định cụ thể quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong KCN. 

Đối với Bộ Tài chính: KTNN đề nghị Bộ Tài chính xem xét, nghiên cứu ban hành quy định hướng dẫn cụ thể cách xác định thời hạn hoạt động của dự án đầu tư KCN, trong đó có tính đến yếu tố thời gian hoàn vốn của dự án để đảm bảo lợi ích nhà đầu tư đồng thời đảm bảo tránh thất thu ngân sách nhà nước. 

Đối với Chính phủ: KTNN đề nghị Chính phủ xem xét quy định thống nhất việc lấy ý kiến các cơ quan có thẩm quyền trước khi phê duyệt đồ án quy hoạch chung xây dựng khu chức năng đặc thù có quy mô trên 200ha hiện chưa thống nhất giữa quy định tại khoản 6 Điều 7 Nghị định 35/2022/NĐ-CP và điểm a, khoản 2 Điều 22 Nghị định 44/2015/NĐ-CP. 

Chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ ngành có liên quan nghiên cứu, xem xét ban hành quy định cụ thể về việc nhà đầu tư nước ngoài cần có cam kết, ràng buộc chuyển giao công nghệ khi có hoạt động đầu tư vào thị trường Việt Nam tại các KKT, KCN. 

Chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan rà soát, hướng dẫn phân cấp cho Ban quản lý khu kinh tế trong việc thực hiện một số nhiệm vụ về bảo vệ môi trường trong KKT, KCN đảm bảo phù hợp, thống nhất để thực hiện. 

Khuyến nghị kiểm toán

Đối với UBND Thành phố Hải Phòng 

Từ kết quả cuộc kiểm toán, KTNN đề nghị UBND thành phố Hải Phòng xem xét các vấn đề sau: 

Thực hiện đánh giá việc cung ứng lao động cũng như thu hút nhà đầu tư trước khi quyết định thành lập các KCN mới nhằm tránh lãng phí tài nguyên đất do đến nay Thành phố còn một số KCN chưa được lấp đầy; một số KCN tỉ lệ lấp đầy còn thấp; 03 KCN đã thành lập chưa thu hút được nhà đầu tư; 04 KCN năm 2025 mới được Thủ tướng phê duyệt chủ trương đầu tư; lao động trong thành phố mới chỉ đáp ứng được 63,35% số lao động trong các KCN đã hoạt động. 

Đối với các Khu công nghiệp đã thành lập nhưng đến nay tỷ lệ lấp đầy còn thấp dưới 50% gồm KCN Nam Đình Vũ Khu II - KCN Deep C2A; Khu phi quan và KCN Nam Đình Vũ (khu 1): 

- Thành phố xem xét, có định hướng chuyển đổi, phát triển thành KCN sinh thái theo định hướng phát triển các khu công nghiệp tại Quyết định số 1516/2023/QĐ-TTg ngày 02/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ “Tập trung phát triển 14 KCN đã thành lập theo hướng đồng bộ, thông minh, sinh thái cả về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội” và Nghị quyết 06/2022/NQ-TU HP của Thành uỷ Hải Phòng. 

- Thành phố xem xét có định hướng bố trí diện tích đất công nghiệp dành cho việc thu hút nhà đầu tư là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo... theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ. 

Đối với Chính phủ 

Từ kết quả cuộc kiểm toán, KTNN báo cáo Chính phủ:

Tại thời điểm Thủ tướng chính phủ ban hành các quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư mới 04 KCN: (1) KCN Nam Tràng Cát; (2) KCN Vinh Quang (giai đoạn 1); (3) KCN Nomura - Hải Phòng (giai đoạn 2); (4) KCN Tràng Duệ 3 thành phố Hải Phòng đã có 14 KCN với tỷ lệ lấp đầy bình quân 63% tuy đảm bảo theo quy định tại Điều 9 Nghị định 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ; song có những điều kiện thực tiễn tại thành phố Hải Phòng cần xem xét khi quyết định thành lập các KCN để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả đầu tư các KCN hiện có, nâng cao hiệu quả sử dụng và tránh lãng phí đất đai đã đầu tư hạ tầng tại các KKT, KCN hiện hữu như: 

- Còn 03 trên tổng số 14 KCN hiện có với tổng diện tích 1.689,72ha chưa có nhà đầu tư thứ cấp gồm: (1) KCN cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng - Deep C3; (2) KCN và khu phi thuế quan Xuân Cầu; (3) KCN Tiên Thanh.

- 02/14 KCN đã có nhà đầu tư thứ cấp nhưng tỷ lệ lấp đầy dưới 50% gồm: (1) KCN Nam Đình Vũ (Khu II) – Deep C 2A tỷ lệ lấp đầy 27%; (2) Khu phi thuế quan và KCN Nam Đình Vũ ( Khu 1) tỷ lệ lấp đầy 45%. 

- KKT Đình Vũ - Cát Hải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung xây dựng tại Quyết định số 1438/QĐ-TTg ngày 03/10/2012 nhưng đến hết năm 2024 vẫn đang triển khai đầu tư, hoặc chưa đầu tư dự án hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, hạ tầng xã hội, các trung tâm phục vụ công cộng, trung tâm chuyên ngành ảnh hưởng đến thu hút nhà đầu tư và phát huy hiệu quả KKT. 

Kiểm toán nhà nước báo cáo để Chính phủ xem xét việc có kế hoạch phát triển nguồn lao động và cân đối việc phát triển các KCN để đảm bảo nguồn cung lao động cho các KCN trên cả nước trong điều kiện lao động tại từng địa phương không đáp ứng nhu cầu lao động của các KCN trên địa bàn. (Tại Hải Phòng, đến 31/12/2024, số lao động ngoại tỉnh tại các KCN trên địa bàn Hải Phòng 71.604 người trên tổng số lao động 215.368 bằng 33%. Trường hợp các địa phương lân cận đều phát triển KCN, có nhu cầu lao động nhiều thì có thể dẫn đến thiếu hụt lao động). 
 

Xem thêm »