14/08/2025
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Kết quả kiểm toán ngân sách địa phương và báo cáo quyết toán ngân sách địa phương năm 2024 của tỉnh Bến Tre (sav.gov.vn) – Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán ngân sách địa phương và báo cáo quyết toán ngân sách địa phương năm 2024 của tỉnh Bến Tre . Báo cáo kiểm toán cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công năm 2024 của địa phương còn một số hạn chế.
Phát hiện, kiến nghị xử lý 956,655 tỷ đồng
Theo kết quả kiểm toán, năm 2024, việc quản lý và sử dụng các khoản thu, chi ngân sách, tiền và tài sản nhà nước năm 2024 tại các đơn vị được kiểm toán về cơ bản tuân thủ quy định của Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn.
Tổng thu NSNN trên địa bàn (đã loại trừ hoàn thuế) 6.368,933 tỷ đồng. Tổng thu NSĐP 23.930,323 tỷ đồng (trong đó vay của ngân sách địa phương 70,588 tỷ đồng). Tổng chi NSĐP 23.223,654 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 4.254,688 tỷ đồng, đạt 159,6% so dự toán TW giao và đạt 156,1% so dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm, chi thường xuyên 8.127,796 tỷ đồng, đạt 107% so dự toán TW giao và đạt 108% dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm. Kết dư ngân sách năm 2024 là 636,081 tỷ đồng.
Công tác tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán (BCQT), xét duyệt, thẩm định quyết toán ngân sách năm 2024 của địa phương được thực hiện theo quy định. Số liệu thu, chi ngân sách do Sở Tài chính theo dõi khớp đúng với số liệu do Kho bạc Nhà nước và cơ quan thuế hạch toán.
Tổng số phát hiện kiến nghị xử lý 956,655 tỷ đồng, gồm: Kiến nghị xử lý tài chính 788,425 tỷ đồng: (1) Tăng thu ngân sách 49,239 tỷ đồng; (2) Kiến nghị thu hồi, giảm chi ngân sách: 241,874 tỷ đồng; (3) Kiến nghị giảm lỗ: 497,312 tỷ đồng. Kiến nghị khác về xử lý tài chính 168,230 tỷ đồng.
Điều chỉnh số liệu quyết toán NSĐP năm 2024 theo kết quả kiểm toán: (1) Tăng chi chuyển nguồn, giảm kết dư ngân sách năm 2024: 3.948,420 tỷ đồng; (2) Giảm chi chuyển nguồn, tăng kết dư ngân sách năm 2024: 63,732 tỷ đồng; (3) Thu viện trợ, huy động đóng góp giảm 792 triệu đồng (NS cấp xã), do các xã thuộc thành phố Bến Tre điều chỉnh giảm ghi thu ghi chi, tương ứng giảm chi đầu tư phát triển.
Công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách còn nhiều hạn chế
Về quản lý thu ngân sách, kết quả kiểm toán chỉ rõ:
Quản lý thu thuế theo phương pháp khoán đối với hộ kinh doanh có quy mô lớn, thuộc trường hợp phải quản lý thu thuế theo phương pháp kê khai (Đội thuế liên huyện Bình Đại - Ba Tri - Giồng Trôm, Đội thuế liên huyện Mỏ Cày Nam – Thạnh Phú); chưa kịp thời rà soát dữ liệu hóa đơn điện tử và thông tin có liên quan để điều chỉnh mức thuế khoán đối với những hộ kinh doanh có doanh số mua bán hàng hóa lớn, nhưng nộp thuế thấp (Đội thuế liên huyện thành phố Bến Tre - Châu Thành); một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết nhưng CCTKV 18 chưa phân tích dữ liệu, thông tin về vốn chủ sở hữu, thông tin về người đại diện pháp luật của doanh nghiệp để phát hiện và quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết; một số trường hợp kê khai sai thời gian miễn giảm thuế TNDN, kê khai sai thuế suất ưu đãi, kê khai miễn giảm thuế TNDN; một số trường hợp kê khai giảm 2% thuế GTGT đối với các mặt hàng không thuộc đối tượng được giảm; còn trường hợp CCTKV 18 miễn tiền thuê đất cho khoảng thời gian công ty chậm làm thủ tục miễn chưa đúng quy định.
Đoàn kiểm tra hoàn thuế thuế GTGT mặt hàng điện thoại di động của Công ty TNHH XNK Thiết Bị Thông Minh Bến Tre chưa thực hiện đầy đủ các nội dung theo chỉ đạo của Cục Thuế nêu tại Công văn số 3311/TCT-TTKT ngày 08/9/2022 về việc hoàn thuế GTGT mặt hàng điện thoại di động, như rà soát IMEI theo nhà sản xuất,...
Trong công tác quản lý nợ thuế, kết quả kiểm toán cho thấy phân loại nợ chưa đúng tính chất của khoản nợ; chưa hạch toán đầy đủ, kịp thời nợ đọng tiền thuê đất, tiền sử dụng đất vào ứng dụng quản lý thuế tập trung; Khoanh nợ chi nhánh không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký nhưng trụ sở chính vẫn đang hoạt động; chưa rà soát ban hành quyết định chấm dứt hiệu lực quyết định khoanh tiền thuế nợ và tính chậm nộp khi người nộp thuế quay lại sản xuất kinh doanh; Công bố thông tin chưa kịp thời hoặc không công bố thông tin Doanh nghiệp bị cưỡng chế ngừng sử dụng hóa đơn trong năm 2024 trên trang thông tin điện tử cơ quan thuế; chưa cưỡng chế nợ thuế trên 90 ngày.
Trung tâm Quản lý phà và Bến xe (Sở Giao thông vận tải) cho thuê cơ sở hạ tầng (Cảng Giao Long) từ tháng 6 năm 2015 đến 2021, thu trước tiền cho thuê 8 năm là 1,2 tỷ đồng, hạch toán góp vốn thành lập Công ty Cổ phần Tân cảng Giao Long theo chủ trương của UBND tỉnh tại Công văn số 389/UBND-KTN ngày 27/01/2015; từ năm 2021 đến năm 2024 tiền cho thuê là 375 triệu đồng, hạch toán bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Toàn bộ số thu từ năm 2016 đến thời điểm kiểm toán (ngày 9/5/2025), đơn vị không hạch toán vào doanh thu để xác định kết quả kinh doanh thực hiện nghĩa vụ NSNN là chưa phù hợp quy định tại khoản 5 Điều 43 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP, khoản 7 Điều 46 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
Đến thời điểm kiểm toán (tháng 5/2025), Công ty Cổ phần Tân cảng Giao Long chưa thực hiện phân phối cổ tức năm 2024 và chi trả cho Trung tâm Quản lý phà và Bến xe.
Bên cạnh đó, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài chính, kế toán của các doanh nghiệp nhà nước, cụ thể:
Công ty TNHH MTV XSKT Bến Tre: Chưa rà soát vốn điều lê cần thiết phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh; xác định kỳ hạn nợ đại lý không xét đến kỳ nợ thực tế; tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất chưa được Công ty đánh giá lại hoặc thuê Công ty thẩm định giá xác định lại giá trị tài sản. UBND tỉnh Bến Tre chưa có ý kiến về phương án đề xuất sắp xếp lại, xử lý tài sản công (nhà, đất) của Công ty đang quản lý. Những thửa đất tại căn nhà số 508 Âu Cơ, Phường 10, Quận Tân Bình, TP.HCM, Công ty đã sử dụng xây dựng Văn phòng đại diện (từ tầng 1 đến tầng 3), diện tích sàn từ tầng 4 đến tầng 9 làm Văn phòng cho thuê, tổng giá trị công trình 110,435 tỷ đồng, Công ty đang ghi nhận tại khoản mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Công ty Cổ phần Công trình đô thị Bến Tre: Công ty kê khai thuế TNDN 10% đối với thu nhập từ hoạt động dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải được hưởng ưu đãi thuế do hoạt động trong lĩnh vực xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, Cục Thuế tỉnh Bến Tre (cũ) cho rằng Công ty chưa đáp ứng tiêu chuẩn “Đã đi vào hoạt động, được cơ quan chức năng có thẩm quyền xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật địa phương” nhưng Công ty chưa thống nhất. Do vậy, Cục Thuế Bến Tre (cũ) có công văn xin ý kiến của Tổng cục Thuế (nay là Cục Thuế -BTC), đến thời điểm này chưa được trả lời.
Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Bến Tre: Công ty không có phương án sử dụng, bổ sung vốn điều lệ theo quy định; hạch toán vốn điều lệ vào khoản mục vốn khác và bao gồm cả giá trị kết cấu công trình được nhà nước giao quản lý chưa đúng hướng dẫn hiện hành. UBND tỉnh Bến Tre chưa quy định cụ thể mức giá tối đa cho 03 sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi.
Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre: UBND tỉnh Bến Tre chưa ban hành giá bán buôn nước sạch trên địa bàn theo Luật Giá số 16/2023/QH15, làm cơ sở để Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre ký hợp đồng mua sỉ nước sạch, do trong năm, Công ty phát sinh mua sỉ nước sạch của 03 Công ty với số tiền 21,886 tỷ đồng” theo giá thương thảo với các đối tác; chưa ban hành giá bán theo biểu bậc theo thang hướng dẫn tại Thông tư số 44/2021/TT-BTC.
Về chi đầu tư phát triển, kết quả kiểm toán cho thấy giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 nguồn ngân sách địa phương đạt tỷ lệ 89,3%, thấp hơn 95% theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Tỉnh chưa bố trí nguồn thu tiền sử dụng đất cho Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới; các công trình trụ sở UBND xã được bố trí vốn đối ứng từ nguồn XSKT cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới chưa đúng quy định, với kế hoạch vốn 43,222 tỷ đồng.
Đến hết 31/01/2025, còn 145 dự án đã phê duyệt quyết toán chưa được các chủ đầu tư bố trí vốn để tất toán tài khoản.
Dự án Đường từ Cảng Giao Long đến khu công nghiệp Phú Thuận (ĐT.DK.07), liên huyện Châu Thành - Bình Đại, tỉnh Bến Tre có nguy cơ không hoàn thành đồng bộ, thông suốt toàn tuyến đường làm chậm phát huy hiệu quả vốn đầu tư thực hiện. Nguyên nhân: (i) Bản thân dự án chậm tiến độ (đang triển khai 02/03 gói thầu xây lắp gần hoàn thành, còn lại gói thầu số 1 chưa tổ chức đấu thầu mặc dù theo Kế hoạch lựa chọn nhà thầu phê duyệt thực hiện trong năm 2023); (ii) trên tuyến đường còn được kết nối với một dự án khác, đến nay chưa triển khai, cụ thể: dự kiến kết nối điểm cuối gói thầu xây lắp số 2 và điểm đầu gói thầu xây lắp số 3 (vị trí kênh Giao Hòa) sẽ xây dựng công trình Cống An Hóa (gồm Cống và Âu Thuyền) do Ban quản lý Đầu tư và xây dựng Thủy lợi 9 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường làm chủ đầu tư, phê duyệt thời gian thực hiện từ năm 2017 - 2023, nhưng đến thời điểm tháng 05/2025, chưa thực hiện. Đoàn kiểm toán không kiến nghị đối với các tồn tại, hạn chế nêu trên do đã được xử lý trách nhiệm của các đơn vị có liên quan và Tỉnh ủy Bến Tre đã có Báo cáo số 837-BC/TU ngày 06/5/2025 về việc thực hiện các kiến nghị tại Kết luận.
Về chi thường xuyên, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ những tồn tại hạn chế trong quản lý chi thường xuyên như:
Một số đơn vị xây dựng dự toán và giao dự toán chưa sát thực tế; chưa nộp trả ngân sách cấp trên kinh phí bổ sung có mục tiêu còn thừa, hết nhiệm vụ chi 155,169 tỷ đồng; ngân sách cấp tỉnh chưa theo dõi quản lý trình phân bổ sử dụng nguồn thu tiền bảo vệ, phát triển đất trồng lúa theo quy định; xác định chưa đúng số phải trích lập nguồn CCTL từ 40% số thu được để lại theo chế độ sau khi trừ các chi phí tại các đơn vị sự nghiệp công lập chưa đảm bảo chi thường xuyên, báo cáo tổng hợp nguồn CCTL chưa tổng hợp đầy đủ nguồn CCTL tại một số đơn vị; còn nhiều trường hợp cơ sở nhà, đất chưa sắp xếp, chưa lập phương án xử lý các cơ sở nhà đất, chưa thực hiện thủ tục giao đất, một số tài sản đã được UBND tỉnh phê duyệt phương án xử lý nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện, đang để trống do chưa kêu gọi được nhà đầu tư, người dân chưa thống nhất ranh giới đất, vướng quy hoạch, chưa thống nhất giữa số liệu do đơn vị quản lý và số liệu tại cơ quan quản lý đất đai, nhiều khu đất của các đơn vị chưa được cơ quan có thẩm quyền cho thuê đất, thu tiền thuê đất theo quy định, tiềm ẩn việc gây lãng phí tài sản công;...
Nhiệm vụ chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành được NSTW bố trí theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 24/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên, trung ương chưa cấp đủ kinh phí, nên địa phương đã sử dụng NSĐP để chi trước việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội với số tiền 247,631 tỷ đồng, cụ thể:
Sử dụng nguồn dự phòng để chi chính sách an sinh xã hội, giải quyết chế độ, chính sách nghỉ hưu trước tuổi và tinh giản biên chế 66,243 tỷ đồng;
Sử dụng nguồn cải cách tiền lương để chi chính sách an sinh xã hội 176,531 tỷ đồng. Trong đó, số tiền 105,406 tỷ đồng (Công văn số 6555/UBND-TCĐT ngày 02/10/2024 của UBND tỉnh), được sử dụng chi an sinh xã hội từ nguồn thực hiện CCTL theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 159/2024/QH15 ngày 13/11/2024 của Quốc hội về dự toán NSNN năm 2025, số còn lại 71,125 tỷ đồng chưa đúng tính chất nguồn CCTL;
Sử dụng nguồn Trung ương bổ sung thực hiện chính sách BHYT cho các đối tượng được NSNN hỗ trợ năm 2023 chuyển sang năm 2024 số tiền 4,857 tỷ đồng để bổ sung kinh phí thực hiện chính sách miễn giảm học phí năm học 2023- 2024 của Trường Trung cấp Công nghệ Bến Tre (theo Công văn số 3397/UBND- TCĐT ngày 30/5/2024 của UBND tỉnh Bến Tre), chưa phù hợp tính chất nguồn kinh phí.
Một số đơn vị quản lý nhà nước, không phải là đơn vị sự nghiệp, nhưng UBND tỉnh quyết định giao biên chế 34 viên chức là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi 2016. Quyết định Sở Giao thông vận tải cử 07 viên chức biệt phái từ Cảng vụ làm nhiệm vụ thanh tra giao thông cho Thanh tra Sở (theo Quyết định số 61/QĐ-SGTVT ngày 19/02/2024 của Sở Giao thông vận tải), không đúng với chức năng, nhiệm vụ.
Tỉnh chưa xử lý các khoản tạm ứng kéo dài nhiều năm (số dư ứng trước từ NSTW 236,971 tỷ đồng, số dư tạm ứng từ ngân sách tỉnh 8,781 tỷ đồng), đã được các Đoàn KTNN trước đây nhận xét, đánh giá, kiến nghị, tuy nhiên chưa kịp thời thu hồi theo khoản a Điều 3 Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ.
Văn phòng Sở Giao thông vận, Văn phòng Sở Nông nghiệp và Môi trường thu phí được để lại đã nhiều năm không sử dụng, không còn nhiệm vụ chi, chuyển nguồn quá 2 năm.
Đến ngày 31/12/2024, Sở Tài nguyên và Môi trường chưa tích hợp cơ sở dữ liệu với cổng hệ thống thông tin quốc gia về đất đai để thực hiện thu phí khai thác và sử dụng tài liệu đất đai từ Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số 56/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí khai thác và sử dụng tài liệu đất đai từ Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai, nên Văn phòng đăng ký đất đai chưa thực hiện theo Thông tư 56/2024/TT-BTC mà thực hiện theo Nghị quyết số 15/2023/NQ-HĐND tỷ lệ để lại là 90%, nộp NSNN 10%).
UBND tỉnh chủ trương cho thuê toàn bộ cơ sở hạ tầng Cảng và các hạng mục công trình nằm trong khu vực Cảng Giao Long với giá khởi điểm là 150 triệu đồng/năm chưa thực hiện tổ chức đấu giá theo quy định hiện hành.
Cơ chế chính sách chưa được triển khai kịp thời, hiệu quả
HĐND tỉnh chưa quyết định hoặc quy định phân cấp thẩm quyền quyết định phê duyệt nhiệm vụ và kinh phí thực hiện cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng của cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24/10/2024 của Chính phủ.
Thông tư số 36/2024/TT-BTNMT ngày 20/12/2024 của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/02/2025 nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường chưa tham mưu UBND tỉnh Bến Tre điều chỉnh Quyết định số 1781/QĐ-UBND ngày 09/8/2017, Quyết định số 1760/QĐ-UBND ngày 27/7/2020 và Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 21/10/2022 của UBND tỉnh Bến Tre (do 03 văn bản này căn cứ Định mức dự toán được áp dụng theo Quyết định số 592/QĐ-BXD ngày 30/5/2014 của Bộ Xây dựng và Thông tư số 14/2017/TT-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ Xây dựng đã hết hiệu lực).
Địa phương chưa ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược cho từng giai đoạn 5 năm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ, chỉ ban hành Kế hoạch triển khai số 2398/KH-UBND ngày 19/4/2024 triển khai thực hiện công tác bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2024.
UBND tỉnh Bến Tre chưa ban hành giá bán buôn nước sạch trên địa bàn theo quy định tại “Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá” ban hành kèm theo Luật Giá số 16/2023/QH15, điểm b khoản 2 Điều 11 Thông tư số 44/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính, làm cơ sở để Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre ký hợp đồng mua sỉ nước sạch.
Sở Tài chính thực hiện theo Quyết định số 68/QĐ-UBND ngày 13/01/2022 của UBND tỉnh Bến Tre Ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thẩm tra phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành, tuy nhiên tại điểm c khoản 1 Điều 6 Quyết định số 68/QĐ-UBND khoán 45% chi cho các thành viên có liên quan gián tiếp trong công tác thẩm tra quyết toán, chưa phù hợp theo điểm b khoản 2 Điều 46 Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ Quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công (b) Nội dung chi cho công tác thẩm tra và phê duyệt quyết toán gồm: Chi trực tiếp cho công tác thẩm tra quyết toán, phê duyệt quyết toán.
Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Bến Tre ban hành tại Quyết định số 11/2021/QĐ-UBND ngày 30/3/2021 của UBND tỉnh Bến Tre đang căn cứ và trích dẫn áp dụng Nghị định 94/2014/NĐ-CP ngày ngày 17/10/2014 của Chính phủ đã hết hiệu lực ngày 15/09/2021, hiện tại được thay thế bởi Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 của Chính phủ.
Hà Linh
(sav.gov.vn) – Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán ngân sách địa phương và báo cáo quyết toán ngân sách địa phương năm 2024 của tỉnh Bến Tre . Báo cáo kiểm toán cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công năm 2024 của địa phương còn một số hạn chế.

Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre (Ảnh minh họa.Nguồn: Internet)
Phát hiện, kiến nghị xử lý 956,655 tỷ đồng
Theo kết quả kiểm toán, năm 2024, việc quản lý và sử dụng các khoản thu, chi ngân sách, tiền và tài sản nhà nước năm 2024 tại các đơn vị được kiểm toán về cơ bản tuân thủ quy định của Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn.
Tổng thu NSNN trên địa bàn (đã loại trừ hoàn thuế) 6.368,933 tỷ đồng. Tổng thu NSĐP 23.930,323 tỷ đồng (trong đó vay của ngân sách địa phương 70,588 tỷ đồng). Tổng chi NSĐP 23.223,654 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 4.254,688 tỷ đồng, đạt 159,6% so dự toán TW giao và đạt 156,1% so dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm, chi thường xuyên 8.127,796 tỷ đồng, đạt 107% so dự toán TW giao và đạt 108% dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm. Kết dư ngân sách năm 2024 là 636,081 tỷ đồng.
Công tác tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán (BCQT), xét duyệt, thẩm định quyết toán ngân sách năm 2024 của địa phương được thực hiện theo quy định. Số liệu thu, chi ngân sách do Sở Tài chính theo dõi khớp đúng với số liệu do Kho bạc Nhà nước và cơ quan thuế hạch toán.
Tổng số phát hiện kiến nghị xử lý 956,655 tỷ đồng, gồm: Kiến nghị xử lý tài chính 788,425 tỷ đồng: (1) Tăng thu ngân sách 49,239 tỷ đồng; (2) Kiến nghị thu hồi, giảm chi ngân sách: 241,874 tỷ đồng; (3) Kiến nghị giảm lỗ: 497,312 tỷ đồng. Kiến nghị khác về xử lý tài chính 168,230 tỷ đồng.
Điều chỉnh số liệu quyết toán NSĐP năm 2024 theo kết quả kiểm toán: (1) Tăng chi chuyển nguồn, giảm kết dư ngân sách năm 2024: 3.948,420 tỷ đồng; (2) Giảm chi chuyển nguồn, tăng kết dư ngân sách năm 2024: 63,732 tỷ đồng; (3) Thu viện trợ, huy động đóng góp giảm 792 triệu đồng (NS cấp xã), do các xã thuộc thành phố Bến Tre điều chỉnh giảm ghi thu ghi chi, tương ứng giảm chi đầu tư phát triển.
Công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách còn nhiều hạn chế
Về quản lý thu ngân sách, kết quả kiểm toán chỉ rõ:
Quản lý thu thuế theo phương pháp khoán đối với hộ kinh doanh có quy mô lớn, thuộc trường hợp phải quản lý thu thuế theo phương pháp kê khai (Đội thuế liên huyện Bình Đại - Ba Tri - Giồng Trôm, Đội thuế liên huyện Mỏ Cày Nam – Thạnh Phú); chưa kịp thời rà soát dữ liệu hóa đơn điện tử và thông tin có liên quan để điều chỉnh mức thuế khoán đối với những hộ kinh doanh có doanh số mua bán hàng hóa lớn, nhưng nộp thuế thấp (Đội thuế liên huyện thành phố Bến Tre - Châu Thành); một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết nhưng CCTKV 18 chưa phân tích dữ liệu, thông tin về vốn chủ sở hữu, thông tin về người đại diện pháp luật của doanh nghiệp để phát hiện và quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết; một số trường hợp kê khai sai thời gian miễn giảm thuế TNDN, kê khai sai thuế suất ưu đãi, kê khai miễn giảm thuế TNDN; một số trường hợp kê khai giảm 2% thuế GTGT đối với các mặt hàng không thuộc đối tượng được giảm; còn trường hợp CCTKV 18 miễn tiền thuê đất cho khoảng thời gian công ty chậm làm thủ tục miễn chưa đúng quy định.
Đoàn kiểm tra hoàn thuế thuế GTGT mặt hàng điện thoại di động của Công ty TNHH XNK Thiết Bị Thông Minh Bến Tre chưa thực hiện đầy đủ các nội dung theo chỉ đạo của Cục Thuế nêu tại Công văn số 3311/TCT-TTKT ngày 08/9/2022 về việc hoàn thuế GTGT mặt hàng điện thoại di động, như rà soát IMEI theo nhà sản xuất,...
Trong công tác quản lý nợ thuế, kết quả kiểm toán cho thấy phân loại nợ chưa đúng tính chất của khoản nợ; chưa hạch toán đầy đủ, kịp thời nợ đọng tiền thuê đất, tiền sử dụng đất vào ứng dụng quản lý thuế tập trung; Khoanh nợ chi nhánh không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký nhưng trụ sở chính vẫn đang hoạt động; chưa rà soát ban hành quyết định chấm dứt hiệu lực quyết định khoanh tiền thuế nợ và tính chậm nộp khi người nộp thuế quay lại sản xuất kinh doanh; Công bố thông tin chưa kịp thời hoặc không công bố thông tin Doanh nghiệp bị cưỡng chế ngừng sử dụng hóa đơn trong năm 2024 trên trang thông tin điện tử cơ quan thuế; chưa cưỡng chế nợ thuế trên 90 ngày.
Trung tâm Quản lý phà và Bến xe (Sở Giao thông vận tải) cho thuê cơ sở hạ tầng (Cảng Giao Long) từ tháng 6 năm 2015 đến 2021, thu trước tiền cho thuê 8 năm là 1,2 tỷ đồng, hạch toán góp vốn thành lập Công ty Cổ phần Tân cảng Giao Long theo chủ trương của UBND tỉnh tại Công văn số 389/UBND-KTN ngày 27/01/2015; từ năm 2021 đến năm 2024 tiền cho thuê là 375 triệu đồng, hạch toán bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Toàn bộ số thu từ năm 2016 đến thời điểm kiểm toán (ngày 9/5/2025), đơn vị không hạch toán vào doanh thu để xác định kết quả kinh doanh thực hiện nghĩa vụ NSNN là chưa phù hợp quy định tại khoản 5 Điều 43 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP, khoản 7 Điều 46 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
Đến thời điểm kiểm toán (tháng 5/2025), Công ty Cổ phần Tân cảng Giao Long chưa thực hiện phân phối cổ tức năm 2024 và chi trả cho Trung tâm Quản lý phà và Bến xe.
Bên cạnh đó, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tài chính, kế toán của các doanh nghiệp nhà nước, cụ thể:
Công ty TNHH MTV XSKT Bến Tre: Chưa rà soát vốn điều lê cần thiết phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh; xác định kỳ hạn nợ đại lý không xét đến kỳ nợ thực tế; tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất chưa được Công ty đánh giá lại hoặc thuê Công ty thẩm định giá xác định lại giá trị tài sản. UBND tỉnh Bến Tre chưa có ý kiến về phương án đề xuất sắp xếp lại, xử lý tài sản công (nhà, đất) của Công ty đang quản lý. Những thửa đất tại căn nhà số 508 Âu Cơ, Phường 10, Quận Tân Bình, TP.HCM, Công ty đã sử dụng xây dựng Văn phòng đại diện (từ tầng 1 đến tầng 3), diện tích sàn từ tầng 4 đến tầng 9 làm Văn phòng cho thuê, tổng giá trị công trình 110,435 tỷ đồng, Công ty đang ghi nhận tại khoản mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Công ty Cổ phần Công trình đô thị Bến Tre: Công ty kê khai thuế TNDN 10% đối với thu nhập từ hoạt động dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải được hưởng ưu đãi thuế do hoạt động trong lĩnh vực xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, Cục Thuế tỉnh Bến Tre (cũ) cho rằng Công ty chưa đáp ứng tiêu chuẩn “Đã đi vào hoạt động, được cơ quan chức năng có thẩm quyền xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật địa phương” nhưng Công ty chưa thống nhất. Do vậy, Cục Thuế Bến Tre (cũ) có công văn xin ý kiến của Tổng cục Thuế (nay là Cục Thuế -BTC), đến thời điểm này chưa được trả lời.
Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Bến Tre: Công ty không có phương án sử dụng, bổ sung vốn điều lệ theo quy định; hạch toán vốn điều lệ vào khoản mục vốn khác và bao gồm cả giá trị kết cấu công trình được nhà nước giao quản lý chưa đúng hướng dẫn hiện hành. UBND tỉnh Bến Tre chưa quy định cụ thể mức giá tối đa cho 03 sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi.
Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre: UBND tỉnh Bến Tre chưa ban hành giá bán buôn nước sạch trên địa bàn theo Luật Giá số 16/2023/QH15, làm cơ sở để Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre ký hợp đồng mua sỉ nước sạch, do trong năm, Công ty phát sinh mua sỉ nước sạch của 03 Công ty với số tiền 21,886 tỷ đồng” theo giá thương thảo với các đối tác; chưa ban hành giá bán theo biểu bậc theo thang hướng dẫn tại Thông tư số 44/2021/TT-BTC.
Về chi đầu tư phát triển, kết quả kiểm toán cho thấy giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 nguồn ngân sách địa phương đạt tỷ lệ 89,3%, thấp hơn 95% theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Tỉnh chưa bố trí nguồn thu tiền sử dụng đất cho Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới; các công trình trụ sở UBND xã được bố trí vốn đối ứng từ nguồn XSKT cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới chưa đúng quy định, với kế hoạch vốn 43,222 tỷ đồng.
Đến hết 31/01/2025, còn 145 dự án đã phê duyệt quyết toán chưa được các chủ đầu tư bố trí vốn để tất toán tài khoản.
Dự án Đường từ Cảng Giao Long đến khu công nghiệp Phú Thuận (ĐT.DK.07), liên huyện Châu Thành - Bình Đại, tỉnh Bến Tre có nguy cơ không hoàn thành đồng bộ, thông suốt toàn tuyến đường làm chậm phát huy hiệu quả vốn đầu tư thực hiện. Nguyên nhân: (i) Bản thân dự án chậm tiến độ (đang triển khai 02/03 gói thầu xây lắp gần hoàn thành, còn lại gói thầu số 1 chưa tổ chức đấu thầu mặc dù theo Kế hoạch lựa chọn nhà thầu phê duyệt thực hiện trong năm 2023); (ii) trên tuyến đường còn được kết nối với một dự án khác, đến nay chưa triển khai, cụ thể: dự kiến kết nối điểm cuối gói thầu xây lắp số 2 và điểm đầu gói thầu xây lắp số 3 (vị trí kênh Giao Hòa) sẽ xây dựng công trình Cống An Hóa (gồm Cống và Âu Thuyền) do Ban quản lý Đầu tư và xây dựng Thủy lợi 9 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường làm chủ đầu tư, phê duyệt thời gian thực hiện từ năm 2017 - 2023, nhưng đến thời điểm tháng 05/2025, chưa thực hiện. Đoàn kiểm toán không kiến nghị đối với các tồn tại, hạn chế nêu trên do đã được xử lý trách nhiệm của các đơn vị có liên quan và Tỉnh ủy Bến Tre đã có Báo cáo số 837-BC/TU ngày 06/5/2025 về việc thực hiện các kiến nghị tại Kết luận.
Về chi thường xuyên, kết quả kiểm toán cũng chỉ rõ những tồn tại hạn chế trong quản lý chi thường xuyên như:
Một số đơn vị xây dựng dự toán và giao dự toán chưa sát thực tế; chưa nộp trả ngân sách cấp trên kinh phí bổ sung có mục tiêu còn thừa, hết nhiệm vụ chi 155,169 tỷ đồng; ngân sách cấp tỉnh chưa theo dõi quản lý trình phân bổ sử dụng nguồn thu tiền bảo vệ, phát triển đất trồng lúa theo quy định; xác định chưa đúng số phải trích lập nguồn CCTL từ 40% số thu được để lại theo chế độ sau khi trừ các chi phí tại các đơn vị sự nghiệp công lập chưa đảm bảo chi thường xuyên, báo cáo tổng hợp nguồn CCTL chưa tổng hợp đầy đủ nguồn CCTL tại một số đơn vị; còn nhiều trường hợp cơ sở nhà, đất chưa sắp xếp, chưa lập phương án xử lý các cơ sở nhà đất, chưa thực hiện thủ tục giao đất, một số tài sản đã được UBND tỉnh phê duyệt phương án xử lý nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện, đang để trống do chưa kêu gọi được nhà đầu tư, người dân chưa thống nhất ranh giới đất, vướng quy hoạch, chưa thống nhất giữa số liệu do đơn vị quản lý và số liệu tại cơ quan quản lý đất đai, nhiều khu đất của các đơn vị chưa được cơ quan có thẩm quyền cho thuê đất, thu tiền thuê đất theo quy định, tiềm ẩn việc gây lãng phí tài sản công;...
Nhiệm vụ chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành được NSTW bố trí theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 24/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên, trung ương chưa cấp đủ kinh phí, nên địa phương đã sử dụng NSĐP để chi trước việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội với số tiền 247,631 tỷ đồng, cụ thể:
Sử dụng nguồn dự phòng để chi chính sách an sinh xã hội, giải quyết chế độ, chính sách nghỉ hưu trước tuổi và tinh giản biên chế 66,243 tỷ đồng;
Sử dụng nguồn cải cách tiền lương để chi chính sách an sinh xã hội 176,531 tỷ đồng. Trong đó, số tiền 105,406 tỷ đồng (Công văn số 6555/UBND-TCĐT ngày 02/10/2024 của UBND tỉnh), được sử dụng chi an sinh xã hội từ nguồn thực hiện CCTL theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 159/2024/QH15 ngày 13/11/2024 của Quốc hội về dự toán NSNN năm 2025, số còn lại 71,125 tỷ đồng chưa đúng tính chất nguồn CCTL;
Sử dụng nguồn Trung ương bổ sung thực hiện chính sách BHYT cho các đối tượng được NSNN hỗ trợ năm 2023 chuyển sang năm 2024 số tiền 4,857 tỷ đồng để bổ sung kinh phí thực hiện chính sách miễn giảm học phí năm học 2023- 2024 của Trường Trung cấp Công nghệ Bến Tre (theo Công văn số 3397/UBND- TCĐT ngày 30/5/2024 của UBND tỉnh Bến Tre), chưa phù hợp tính chất nguồn kinh phí.
Một số đơn vị quản lý nhà nước, không phải là đơn vị sự nghiệp, nhưng UBND tỉnh quyết định giao biên chế 34 viên chức là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi 2016. Quyết định Sở Giao thông vận tải cử 07 viên chức biệt phái từ Cảng vụ làm nhiệm vụ thanh tra giao thông cho Thanh tra Sở (theo Quyết định số 61/QĐ-SGTVT ngày 19/02/2024 của Sở Giao thông vận tải), không đúng với chức năng, nhiệm vụ.
Tỉnh chưa xử lý các khoản tạm ứng kéo dài nhiều năm (số dư ứng trước từ NSTW 236,971 tỷ đồng, số dư tạm ứng từ ngân sách tỉnh 8,781 tỷ đồng), đã được các Đoàn KTNN trước đây nhận xét, đánh giá, kiến nghị, tuy nhiên chưa kịp thời thu hồi theo khoản a Điều 3 Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ.
Văn phòng Sở Giao thông vận, Văn phòng Sở Nông nghiệp và Môi trường thu phí được để lại đã nhiều năm không sử dụng, không còn nhiệm vụ chi, chuyển nguồn quá 2 năm.
Đến ngày 31/12/2024, Sở Tài nguyên và Môi trường chưa tích hợp cơ sở dữ liệu với cổng hệ thống thông tin quốc gia về đất đai để thực hiện thu phí khai thác và sử dụng tài liệu đất đai từ Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số 56/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí khai thác và sử dụng tài liệu đất đai từ Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai, nên Văn phòng đăng ký đất đai chưa thực hiện theo Thông tư 56/2024/TT-BTC mà thực hiện theo Nghị quyết số 15/2023/NQ-HĐND tỷ lệ để lại là 90%, nộp NSNN 10%).
UBND tỉnh chủ trương cho thuê toàn bộ cơ sở hạ tầng Cảng và các hạng mục công trình nằm trong khu vực Cảng Giao Long với giá khởi điểm là 150 triệu đồng/năm chưa thực hiện tổ chức đấu giá theo quy định hiện hành.
Cơ chế chính sách chưa được triển khai kịp thời, hiệu quả
HĐND tỉnh chưa quyết định hoặc quy định phân cấp thẩm quyền quyết định phê duyệt nhiệm vụ và kinh phí thực hiện cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng của cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24/10/2024 của Chính phủ.
Thông tư số 36/2024/TT-BTNMT ngày 20/12/2024 của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/02/2025 nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường chưa tham mưu UBND tỉnh Bến Tre điều chỉnh Quyết định số 1781/QĐ-UBND ngày 09/8/2017, Quyết định số 1760/QĐ-UBND ngày 27/7/2020 và Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 21/10/2022 của UBND tỉnh Bến Tre (do 03 văn bản này căn cứ Định mức dự toán được áp dụng theo Quyết định số 592/QĐ-BXD ngày 30/5/2014 của Bộ Xây dựng và Thông tư số 14/2017/TT-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ Xây dựng đã hết hiệu lực).
Địa phương chưa ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược cho từng giai đoạn 5 năm theo Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ, chỉ ban hành Kế hoạch triển khai số 2398/KH-UBND ngày 19/4/2024 triển khai thực hiện công tác bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2024.
UBND tỉnh Bến Tre chưa ban hành giá bán buôn nước sạch trên địa bàn theo quy định tại “Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá” ban hành kèm theo Luật Giá số 16/2023/QH15, điểm b khoản 2 Điều 11 Thông tư số 44/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính, làm cơ sở để Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre ký hợp đồng mua sỉ nước sạch.
Sở Tài chính thực hiện theo Quyết định số 68/QĐ-UBND ngày 13/01/2022 của UBND tỉnh Bến Tre Ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thẩm tra phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành, tuy nhiên tại điểm c khoản 1 Điều 6 Quyết định số 68/QĐ-UBND khoán 45% chi cho các thành viên có liên quan gián tiếp trong công tác thẩm tra quyết toán, chưa phù hợp theo điểm b khoản 2 Điều 46 Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ Quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công (b) Nội dung chi cho công tác thẩm tra và phê duyệt quyết toán gồm: Chi trực tiếp cho công tác thẩm tra quyết toán, phê duyệt quyết toán.
Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Bến Tre ban hành tại Quyết định số 11/2021/QĐ-UBND ngày 30/3/2021 của UBND tỉnh Bến Tre đang căn cứ và trích dẫn áp dụng Nghị định 94/2014/NĐ-CP ngày ngày 17/10/2014 của Chính phủ đã hết hiệu lực ngày 15/09/2021, hiện tại được thay thế bởi Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 của Chính phủ.
Hà Linh