Vai trò của KTNN trong việc góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020

23/05/2011
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

PGS.TS. Nguyễn Đình Hoà
Phó GĐ Trung tâm Khoa học và BDCB – KTNN

Bài viết tập trung làm rõ khái niệm tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế từ đó làm cơ sở  phân tích đánh giá sơ bộ chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 . Xuất phát từ địa vị pháp lý chức năng nhiệm vụ của KTNN, bài viết đi sâu phân tích những đóng góp về giá trị và lợi ích của KTNN trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

1. Khái luận những vấn đề về tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế và đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam(2001-2010)
Sau 25 năm đổi mới và đặc biệt là 10 năm từ 2001-2010 Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng, làm thay đổi thế và lực của đất nước. Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm và tàn phá nặng nề.

Tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một chỉ tiêu chiến lược đặc biệt quan trọng và nó thường được đo bằng sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân GNP hoặc tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Tăng trưởng kinh tế được tính bằng:
- Sự tăng trưởng của đại lượng  tuyệt đối tổng sản phẩm quốc dân GNP hoặc tổng sản phẩm quốc nội GDP hoặc
- Sự tăng lên của GNP hoặc GDP bình quân đầu người.
Trong phân tích và so sánh kinh tế vĩ mô với các nước, tăng trưởng kinh tế được đo bằng GDP bình quân đầu người là một chỉ số rất quan trọng và chịu ảnh hưởng của sự gia tăng dân số. Tốc độ gia tăng GDP bình quân đầu người sẽ bằng tốc độ tăng trưởng GDP trừ đi tốc độ gia tăng dân số.
Mặt khác khi nghiên cứu tăng trưởng chúng ta phải quan tâm tới chất lượng tăng trưởng.
Thuật ngữ “chất lượng tăng trưởng kinh tế” ở Việt Nam trong một vài năm gần đây mới được quan tâm nhiều hơn, nhưng về mặt học thuật vẫn chưa có một khái niệm chính thống nào được đề cập tới. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng tăng trưởng kinh tế có thể tiếp cận theo hai xu hướng:
Một là, tiếp cận chất lượng tăng trưởng kinh tế xét theo hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế xét theo hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào được biểu diễn bằng hàm sản xuất Cobb-Douglas: Q = T. La Kb. Trong đó Q: thu nhập GDP; T: Vai trò của khoa học, công nghệ; L, K: Lao động, vốn tham gia vào hoạt động kinh tế; a,b: tỷ lệ đóng góp của lao động, vốn trong GDP.
Nếu biểu diễn dưới dạng tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì hàm sản xuất có dạng: g = a.l + b.k + t. Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng kinh tế; L, k: tốc độ tăng của vốn và lao động; t: đóng góp của khoa học và công nghệ hay còn gọi là năng suất các nhân tố tổng hợp TFP.
Nếu đóng góp của TFP vào sự tăng trưởng càng cao thì chất lượng tăng trưởng càng tốt và ngược lại. Mô hình này cho chúng ta biết các yếu tố đầu vào tác động đến tăng trưởng như thế nào.
Hai là, tiếp cận chất lượng tăng trưởng kinh tế theo quan điểm phát triển bền vững:
Chất lượng tăng trưởng phải đảm bảo tính bền vững trong sự tương tác với các yếu tố xã hội và môi trường. Đó là sự tăng trưởng phải tạo ra nhiều việc làm, có môi trường tài chính vĩ mô ổn định và lành mạnh, không tạo ra sự chênh lệch giàu nghèo bất hợp lý, đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội, không làm ô nhiễm hay hủy hoại môi trường.
Qua phân tích ở trên chúng ta có thể đưa ra định nghĩa chất lượng tăng trưởng kinh tế như sau: Chất lượng tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế bền vững đảm bảo sử dụng hiệu quả các nhân tố đầu vào của nền sản xuất, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh và  tiến bộ xã hội với bảo vệ môi trường.

Đánh giá sơ bộ chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2001-2010
- Mặc dù chất lượng tăng trưởng đã có sự cải thiện nhưng tăng trưởng vẫn nghiêng về lượng hơn là chất, nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, tỉ trọng trong tác động của 2 yếu tố vốn và lao động gấp nhiều lần của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp.
Ngay cả việc phát triển theo chiều rộng thì Việt Nam cũng cũng nghiêng về yếu tố vốn nhiều hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, kết quả phân tích mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và năng suất tổng hợp đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy, mặc dù chất lượng tăng trưởng phần nào được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm (từ 14,28 thời kỳ 1992-1997 lên 22,6 thời kỳ 1998-2002 và 28,2 giai đoạn 2003 đến nay), tuy nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73 và yếu tố lao động chiếm 19,07; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. Ngay cả trong tăng trưởng chiều rộng thì sự tăng trưởng của nước ta cũng nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ trọng đóng góp của vốn cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động). Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng và nước ta sẽ có nguy cơ rơi vào “bẫy các nước có thu nhập trung bình”  và không thể “cất cánh” để phát triển lên được.
- Hiệu quả sử dụng vốn thấp
Hiệu quả sử dụng vốn được biểu hiện qua hệ số ICOR( Incremental Capital Output Ratio- Số đồng vốn phải bỏ ra để tạo ra một đồng tăng trưởng trong GDP). Hệ số ICOR từ năm 1991(2,92) trở lại đây đang có xu hướng tăng nhanh, đành rằng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự cất cánh chúng ta phải đầu tư nhiều cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế nhưng vẫn là điều cảnh báo về hiệu quả đầu tư, phản ánh những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Nếu như năm 2001 hệ số ICOR là 4,27 thì năm 2005 là 5,4 và đến năm 2008 là 6,6 và năm 2009 đã tăng lên trên 8,0. Đây là điểm đáng quan ngại nhất vì nợ công đã sử dụng không có hiệu quả, là do chúng ta đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp và do có nhiều chương trình dự án đầu tư kéo dài. Ngay cả mức phổ biến từ 4,5- 6,6, trong giai đoạn 2001-2010 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước đang phát triển, ICOR ở mức 3,0 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. 
        
Tốc độ tăng trưởng kinh tế và hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2001-2010

Năm

Tốc độ tăng trưởng

Chỉ số ICOR

2001

6,79

4,27

2002

6,89

4,52

2003

7,08

5,24

2004

7,34

5,28

2005

8,44

5,4

2006

8,23

5,6

2007

8,46

6,04

2008

6,31

6,6

2009

5,32

8,0

2010

6,78

Nguồn Tổng cục Thống kê và tác giả tự tính toán hệ số ICOR

2. Vai trò của KTNN trong việc góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020
KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội (QH) thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Hoạt động kiểm toán của KTNN là kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính (BCTC); việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách (NS), tiền và tài sản của Nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng NS, tiền và tài sản của Nhà nước; phục vụ đắc lực cho hoạt động của QH, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp trong việc thực hiện chức năng giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của Quốc gia và các địa phương.
Vai trò của KTNN trong việc góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, KTNN với tư cách là một định chế quản lý nhà nước quan trọng giúp QH và Chính phủ quản lý điều hành có hiệu quả ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Một mặt KTNN không chỉ góp phần quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu công chống thất thoát, tham nhũng lãng phí, mà mặt khác quan trọng hơn KTNN phải góp phần làm cho đồng tiền thuế của nhân dân và các nguồn lực khác của quốc gia được sử dụng một cách hiệu quả hơn, từ đó nâng cao chất lượng, sự lành mạnh, bền vững của nền tài chính quốc gia, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Đó chính là giá trị gia tăng của KTNN.
KTNN đã đưa ra những nhận định và đánh giá khách quan và sâu sắc về tình hình quản lý, sử dụng NSNN. Qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện các sai phạm như trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ thuế, thu chi sai chế độ, tiêu chuẩn định mức gây lãng phí thất thoát hoặc tham nhũng, giúp các đơn vị sử dụng NSNN hoặc các cơ quan nhà nước xử lý kịp thời. Báo cáo kiểm toán là tài liệu quan trọng và đáng tin cậy giúp cho Chính phủ, UBND và cơ quan tài chính các cấp có thêm thông tin về tình hình tuân thủ kỷ cương pháp luật về tài chính ngân sách của các cơ quan đơn vị, thấy được những hạn chế sai phạm trong quản lý điều hành NSNN, sự bất cập về chế độ chính sách để từ đó có các giải pháp đồng bộ về tổ chức điều hành NS nhằm phục vụ tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của cả nước cũng như từng địa phương đơn vị, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã kiến nghị sửa đổi bổ sung nhiều chế độ, tiêu chuẩn, định mức hay cơ chế chính sách không còn phù hợp với thực tiễn.
Kết quả kiểm toán cung cấp cho QH, HĐND các cấp có thêm thông tin tin cậy để xem xét, quyết định NSNN hàng năm và đánh giá công tác điều hành NS của Chính phủ, UBND các cấp cũng như xem xét, phê chuẩn báo cáo quyết toán NSNN. KTNN đã cung cấp thông tin cho Quốc hội, HĐND trong quá trình thảo luận, quyết định các cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Kết quả kiểm toán của KTNN cung cấp thông tin khách quan cho Quốc hội, HĐND các cấp xem xét đánh giá hiệu quả, hiệu lực về quản lý sử dụng NSNN.
Hoạt động kiểm toán NSNN trong những năm qua đã góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, tăng thu giảm chi NSNN hàng năm trên chục ngàn tỷ đồng, góp phần giữ vững kỷ cương và hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý tài chính công thông qua đó làm cho việc quản lý và sử dụng NSNN có hiệu quả, đúng mục đích, đúng chế độ và định mức, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, như vậy với hoạt động kiểm toán của mình, KTNN đã, đang và sẽ góp phần trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, kết hợp 3 loại hình kiểm toán, bao gồm: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, KTNN tiến hành kiểm toán chi tiêu công để tính được hiệu quả giữa đầu ra và chi phí đầu vào. Trong thực tiễn quản lý chi tiêu công  theo chi phí đầu vào như hiện nay, KTNN kiểm tra, xem xét và đánh giá cách thức lập dự toán ngân sách, việc tuân thủ định mức, tiêu chuẩn chế độ theo luật định. Khi kinh tế phát triển theo chiều sâu, nghĩa là tăng trưởng có chất lượng, mô hình quản lý chuyển sang quản lý theo đầu ra, lập ngân sách theo kế hoạch trung và dài hạn bên cạnh kiểm toán việc tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu, KTNN thực hiện kiểm toán hoạt động để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội trong việc sử dụng các nguồn lực công, nhất là các dự án đầu tư trọng điểm, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Thứ ba, với việc kiểm toán trước (tiền kiểm), KTNN góp phần ngăn ngừa rủi ro, răn đe sai phạm, nâng cao hiệu quả chi tiêu công, bởi vì “tiền kiểm” có lợi thế là ngăn ngừa sai phạm và thiệt hại ngay trước khi thực hiện, tránh được đổ bể và lãng phí nguồn lực; còn kiểm toán sau (hậu kiểm) chỉ làm được việc là chỉ rõ trách nhiệm gắn với nghĩa vụ bồi hoàn và ngăn ngừa tái phạm sau này. Cùng với việc kiểm toán chi tiêu công, KTNN thực hiện kiểm toán nợ công giúp Chính phủ có cái nhìn toàn diện về thu, chi nợ công, nhất là hiệu quả sử dụng nợ công. Kiểm toán xác nhận số liệu nợ, cơ cấu nợ từ đó có cơ sở đánh giá tính bền vững của nợ Chính phủ và nợ công trong tương quan với GDP, trong mối quan hệ với đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ tư, với việc kiểm toán các DNNN - một bộ phận quan trọng cấu thành kinh tế nhà nước, KTNN sẽ có những đánh giá khách quan tình hình thực hiện mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của các DNNN; Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã, đang và sẽ đánh giá khách quan, độc lập, chính xác và trung thực về thực trạng tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác quản lý và sử dụng vốn tại các DNNN theo các quy định và pháp luật của Nhà nước. KTNN đã  phát hiện các sai phạm cần xử lý của các cá nhân, tổ chức quản lý sử dụng tiền vốn và tài sản của Nhà nước cần phải bồi thường, hoàn trả và nộp vào ngân sách nhà nước số tiền vốn và tài sản sử dụng sai mục đích, thất thoát, lãng phí; đồng thời kiến nghị thực hiện các biện pháp khắc phục các tồn tại trong hoạt động của các DNNN.
Từ kết quả kiểm toán và những kiến nghị một cách khách quan đầy đủ của KTNN, các DNNN sẽ nhận thức một cách đầy đủ, rõ ràng hơn về thực trạng tài chính cũng như những kết quả hoạt động kinh doanh và những yếu kém tồn tại cần khắc phục. Từ đó giúp DNNN phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, ngăn ngừa và chống tham ô lãng phí, thất thoát tài sản, vốn và các nguồn lực khác của DN, giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý sử dụng tài sản và vốn của Nhà nước cũng như những nguồn lực khác một cách hiệu quả hơn. Đây là điều quan trọng bậc nhất làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên và chính là sự đóng góp của KTNN góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng của cả nền kinh tế quốc dân.
Đối với các DNNN làm chủ đầu tư các công trình, dự án trọng điểm, chương trình và mục tiêu quốc gia, thông qua hoạt động và kết quả kiểm toán của KTNN sẽ giúp cho các chủ đầu tư có đủ cơ sở tin cậy để quyết toán các hợp đồng xây dựng, làm rõ những vướng mắc, bất cập để có cơ sở báo cáo và kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tháo gỡ và giải quyết dứt điểm. Với hoạt động kiểm toán trong lĩnh vực này, KTNN đã, đang và sẽ góp phần giúp cho chủ đầu tư giảm chi phí đầu tư, tiết kiệm nguồn lực và thời gian không những trong công tác thanh quyết toán hợp đồng xây lắp, lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo quyết toán được chính xác, nhanh chóng hơn mà điều quan trọng hơn là tạo nên một áp lực mạnh mẽ để vốn đầu tư sớm phát huy được hiệu quả, làm giảm chỉ số ICOR chính là góp phần làm tăng chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Ngoài việc xác nhận tính trung thực, đầy đủ và chính xác về số liệu tính tuân thủ cũng như tính hiệu lực hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các DNNN KTNN sẽ đưa ra những những cảnh báo về những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các DNNN. Đặc biệt, đối với những công trình, dự án có quy mô đầu tư lớn, phức tạp và thời gian đầu tư kéo dài, kết quả kiểm toán của KTNN còn giúp cho các chủ đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước xác định rõ ảnh hưởng cũng như hệ lụy của các quyết định đầu tư và công tác quản lý đầu tư tới hiệu quả đầu tư cả về yếu tố kinh tế và xã hội.
Từ khía cạnh xã hội, khi kết quả kiểm toán các DNNN của KTNN được công bố công khai, một mặt sẽ có tác dụng tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của các DNNN trong nền kinh tế quốc dân nhưng mặt khác cũng tạo nên những áp lực cần thiết đối với các DNNN vì được cả xã hội quan tâm giám sát để hạn chế bớt sai phạm, lãng phí, thất thoát và phải tìm các biện pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Thứ năm, Kiểm toán Nhà nước là công cụ quan trọng để phối hợp, gắn kết chính sách tài khóa (CSTK) và tiền tệ, hạn chế tác động qua lại bất lợi của hai chính sách này. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ (CSTT) là hai công cụ quan trọng bậc nhất để Chính phủ quản lý điều tiết vĩ mô để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội cũng như tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, KTNN còn có vai trò quan trọng trong tư vấn với Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý trong từng thời kỳ. Thông qua kiểm toán hằng năm đối với Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng thương mại nhà nước, bên cạnh việc kiểm tra, xác nhận các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, KTNN còn đi sâu phân tích, đánh giá thực tại các chỉ tiêu về lượng tiền, lãi suất vay, cho vay, tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ v.v.. từ đó kiến nghị với Chính phủ các giải pháp về chính sách tiền tệ quốc gia. Ví dụ với việc kiểm toán việc hỗ trợ lãi suất 4 trong gói kích cầu chống suy giảm kinh tế trong năm 2009, KTNN đã có cơ sở đánh giá rằng lạm phát trong năm 2010 không phải chỉ do tác động do lượng tiền tăng trong lưu thông thông qua hỗ trợ lãi suất vì gói kích cầu này chưa giải ngân hết mà lạm phát gia tăng là do chi phí đẩy giá cả nguyên vật liệu tăng và đặc biệt là do giá cả lương thực thực phẩm tăng cộng với ảnh hưởng của giá cả thế giới qua đó đã giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ.
Với vai trò quan trọng trong việc kiểm soát NSNN, tài sản nhà nước, những kết quả kiểm toán và kiến nghị của KTNN cũng có những giá trị cảnh báo quan trọng đối với NHNN khi ban hành và thực hiện chính sách tiền tệ. Những thông tin dự báo thu được từ kết quả kiểm toán của KTNN có thể hạn chế những yếu tố mà NHTW khó kiểm soát trong quá trình thực hiện CSTT như cho vay chính phủ, tài sản nước ngoài ròng… trên bảng cân đối tài sản của NHTW.
Thứ sáu, KTNN còn có một đóng góp quan trọng là đánh giá các văn bản pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi không phù hợp với thực tiễn, những bất cập, những rủi ro về pháp lý... nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, hệ thống định mức phân bổ ngân sách, định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu nguồn lực công . Đây là những cơ sở quan trọng để Nhà nước đề ra các biện pháp và công cụ quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nền hành chính công trong đó có chi tiêu tài chính công.
Qua phân tích ở trên cho thấy, KTNN với tư cách là một định chế quản lý nhà nước quan trọng không thể thiếu trong bộ máy của Nhà nước pháp quyền XHCN để giúp QH và Chính phủ quản lý điều hành có hiệu quả ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. KTNN không chỉ góp phần quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu công chống thất thoát, tham nhũng, lãng phí, mà quan trọng hơn KTNN đã góp phần làm cho đồng tiền thuế của nhân dân và các nguồn lực khác của quốc gia được sử dụng một cách hiệu quả hơn, từ đó nâng cao chất lượng, sự lành mạnh, bền vững của nền tài chính quốc gia và góp phần to lớn và thiết thực trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.

3. Những kiến nghị và giải pháp
Để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2011-2020, theo chúng tôi Chính phủ cần làm tốt những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, Chính phủ phải có sự lựa chọn và giải quyết tốt một cách nhất quán ba vấn đề cơ bản :1/ sự kết hợp giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng với ổn định kinh tế vĩ mô; 2/ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu của doanh nghiệp Nhà nước trong khuôn khổ tái cấu trúc nền kinh tế; 3/ nâng cao hiệu quả  sử dụng NSNN, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư công; kiên quyết cắt giảm những dự án và hạng mục đầu tư kéo dài kém hiệu quả, đầu tư dàn trải.
Thứ hai, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ lượng( theo chiều rộng), sang mô hình tăng trưởng về chất (theo chiều sâu) trên cơ sở tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế theo 2 hướng :  Thay đổi tỉ trọng đóng góp của từng yếu tố đầu vào vào tăng trưởng kinh tế bằng cách giảm dần sự đóng góp của vốn, lao động và tăng cường sự đóng góp của khoa học công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý; gắn tăng trưởng kinh tế với tái cơ cấu kinh tế thông qua việc điều chỉnh danh mục các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao thay vì tập trung sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động, vốn, nguyên nhiên liệu làm ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá để kiềm chế lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ thận trọng, điều hành linh hoạt và chủ động, phối hợp có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là lãi suất, lượng tiền cung ứng, lượng tiền dự trữ bắt buộc và chính sách tỉ giả để kiềm chế lạm phát  và giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước xuống trong khoảng 4- 4,5 GDP./.
                                                        
Tài liệu tham khảo
1. Trần Thọ Đạt: Nhìn lại sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế sau khủng hoảng khu vực( 1997-1998) và bàn về mô hình tăng trưởng kinh tế hậu khủng hoảng hiện nay- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia : Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam : Cơ sở lý luận và thực tiễn. Hà Nội 9-2009.
2. Nguyễn Đình Hoà : Chất lượng tăng trưởng kinh tế : Lý luận và thực tiễn. Tạp chí Kinh tế và phát triển tháng 1-2007.
3. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Giá trị và lợi ích của Kiểm toán nhà nước do KTNN phối hợp với ACCA của Vương quốc Anh tổ chức 12/11/2010 tại Hà Nội.
4. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

Theo Tạp chí Kiểm toán số 5/2011
 

Xem thêm »