Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán lĩnh vực chi đầu tư XDCB các địa phương do Kiểm toán Nhà nước khu vực I thực hiện

09/08/2012
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trong khuôn khổ Hội thảo "Kiểm toán hiệu quả đầu tư công" do Kiểm toán Nhà nước phối hợp với Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA) tổ chức tại Hà Nội ngày 8/8/2012. Ông ông Vũ Khánh Toàn - Phó Kiểm toán trưởng KTNN khu vực I đã có bài tham luận: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán lĩnh vực chi đầu tư xây dựng cơ bản các địa phương do KTNN khu vực I thực hiện". Ban Biên tập Website Kiểm toán Nhà nước xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài tham luận này.

Chi đầu tư đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) của ngân sách nhà nước (NSNN) là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tập trung vào NSNN nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn và mở rộng tài sản cố định, từng bước tăng cường và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Thực tiễn cho thấy chi đầu tư XDCB là khoản chi chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong chi đầu tư phát triển của NSNN và chủ yếu thực hiện đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các công trình không có khả năng thu hồi vốn.

Luật NSNN (có hiệu lực từ 1/1/2004) đánh dấu một bước tiến đáng kể trong việc tăng cường năng lực khai thác, huy động các nguồn lực tài chính qua NSNN. Với việc sửa đổi phân cấp NSNN, theo đó trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa phương, bên cạnh đó việc quy định về ổn định ngân sách địa phương (Điều 4, khoản 2), theo đó tỷ lệ phần trăm () phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3 đến 5 năm, đã tạo điều kiện cho các địa phương yên tâm và tích cực trong việc huy động các nguồn thu trên địa bàn; mặt khác quy định cho phép ngân sách cấp tỉnh được huy động các nguồn vốn tín dụng trong nước cho đầu tư với mức tối đa 30 vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh (Khoản 3; Điều 8) đã mở đường cho các địa phương trong việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để tham gia đầu tư cho các mục tiêu của ngân sách.

Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư từ NSNN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và liên tục tăng về số tuyệt đối. Theo số liệu thống kê giai đoạn 2006 - 2010, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt bình quân 42,7 GDP, trong đó tỷ trọng đầu tư công chiếm khoảng 43,3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội , lượng vốn đầu tư từ NSNN hàng năm tăng mạnh về số lượng tuyệt đối. Tuy nhiên để một đồng vốn được phát huy được đòi hỏi phải sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm và đúng mục đích và được giám sát, kiểm soát trong suốt quá trình đầu tư. Để bảo đảm được việc này, việc nâng cao chất lượng kiểm toán trong lĩnh vực kiểm toán chi đầu tư XDCB của  KTNN nói chung và các KTNN khu vực nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi đi thẳng vào thực trạng nội dung kiểm toán chủ yếu khi kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB của KTNN khu vực và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại các địa phương.  

1. Thực trạng kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB các địa phương do KTNN khu vực I thực hiện trong những năm gần đây
Kiểm toán chi đầu tư XDCB luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của KTNN. Khi thực hiện kiểm toán nói chung và kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB nói riêng, các Đoàn kiểm toán phải tuân thủ các quy trình, chuẩn mực kiểm toán của ngành . Theo sự phân công nhiệm vụ hiện nay đối với lĩnh vực kiểm toán đầu tư dự án, các KTNN khu vực có 2 hình thức tổ chức kiểm toán chủ yếu: Một là, thực hiện kiểm toán chi đầu tư XDCB trong kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương (NSĐP); Hai là, thực hiện kiểm toán một số dự án đầu tư do UBND tỉnh, thành phố là Chủ đầu tư hoặc quyết định đầu tư và dự án khác khi được giao (kiểm toán dự án đầu tư).

1.1. Kiểm toán chi đầu tư XDCB trong kiểm toán Báo cáo quyết toán ngân sách địa phương
Hiện nay, KTNN các khu vực tổ chức kiểm toán chi đầu tư XDCB trong kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách, chủ yếu thực hiện kiểm toán tổng hợp tại Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, KBNN tỉnh về công tác quản lý, điều hành, phân bổ, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư XDCB của địa phương và có chọn mẫu một số dự án để thực hiện kiểm toán nhằm bổ sung bằng chứng, cơ sở cho các nhận xét, đánh giá, kết luận kiểm toán về công tác quản lý dự án đầu tư XDCB tại địa phương.
a) Nội dung chủ yếu của kiểm toán tổng hợp chi đầu tư XDCB khi kiểm toán NSĐP gồm:
- Kiểm tra việc chấp hành quy định của Chính phủ, HĐND về lập, phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư XDCB trong năm ngân sách;
- Kiểm tra tình hình thực hiện vốn đầu tư;
- Kiểm tra tổng vốn đầu tư XDCB được quyết toán chi NSNN trong năm tài chính. Kiểm tra các báo cáo của KBNN về quyết toán vốn đầu tư XDCB như báo cáo tổng hợp quyết toán nguồn vốn và sử dụng vốn đầu tư XDCB, báo cáo thanh toán vốn đầu tư theo mục lục ngân sách;
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định khi cấp phát thanh toán, tạm ứng và thu hồi vốn đầu tư XDCB về điều kiện và thủ tục hồ sơ thanh toán; Thứ năm, kiểm tra việc chấp hành trình tự lập, thẩm định và phê duyệt hồ sơ dự án, việc chấp hành Luật Đấu thầu...
b) Nội dung chủ yếu của kiểm toán chi tiết các dự án do các Ban quản lý dự án quản lý, gồm:
- Đánh giá công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB theo các nội dung: tình hình triển khai dự án, khối lượng hoàn thành; nhận xét tình hình giải ngân theo kế hoạch vốn, tình hình chấp hành nguyên tắc tạm ứng, thanh toán vốn đầu tư XDCB;
- Đánh giá việc tuân thủ trình tự, thủ tục đầu tư XDCB; Luật Đấu thầu; chấp hành quy định khác;
- Đánh giá việc quản lý và cấp phát vốn đầu tư thực hiện cho các dự án; công tác quản lý và cấp phát vốn đầu tư XDCB; việc thẩm định phiếu giá, hồ sơ thanh toán; đánh giá về việc lập, thẩm tra, phê duyệt, quyết toán vốn đầu tư; đánh giá công tác tổ chức quản lý dự án, công tác ký kết hợp đồng, giám sát, chỉ đạo thi công; nghiệm thu thanh toán.

1.2. Kiểm toán các dự án đầu tư tại các địa phương
Nội dung chủ yếu kiểm toán dự án đầu tư, gồm: (i) kiểm toán việc chấp hành pháp luật, chế độ quản lý đầu tư và xây dựng; (ii) kiểm toán tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực của dự án đầu tư; (iii) kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, kiểm toán nguồn vốn đầu tư; kiểm toán chi phí đầu tư; kiểm toán chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình; kiểm toán giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng; và kiểm toán tình hình công nợ và vật tư, thiết bị tồn đọng.
 1.3 Một số kết quả kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB do KTNN khu vực I thực hiện (2009-2011)
Trong 03 năm (2009-2011), KTNN khu vực I thực hiện kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại 18 cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán NSĐP và 6 cuộc kiểm toán DAĐT. Các Đoàn kiểm toán của KTNN khu vực I đã kiến nghị xử lý tài chính 315,2 tỷ đồng, trong đó: thu nộp vào NSNN 45,1 tỷ đồng; giảm thanh toán cấp phát 112 tỷ đồng; xử lý tài chính khác (giảm giá trúng thầu, hoàn trả nguồn vốn do sử dụng sai mục đích...) số tiền lên đến 158,1 tỷ đồng.
Qua thực tế kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại các địa phương do KTNN khu vực I thực hiện cho thấy: theo thời gian các địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực trong quản lý từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc đầu tư đưa dự án vào khai thác sử dụng, các sai sót trong quản lý đầu tư từng bước đã được khắc phục. Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng đã chỉ ra một số sai sót thường thấy trong công tác quản lý đầu tư XDCB tại địa phương như sau:
- Thứ nhất, Công tác quy hoạch vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, thiếu nghiên cứu chi tiết và không phù hợp với quy hoạch tổng thể nhưng vẫn được phê duyệt dẫn đến khi triển khai thực hiện phải điều chỉnh, bổ sung làm lãng phí chi phí lập dự án, chi phí lập thiết kế đều chỉnh bổ sung. 
- Thứ hai, Chất lượng công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án còn hạn chế nên khi thực hiện dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần làm ảnh hưởng đến công tác kế hoạch vốn đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án. Qua kiểm toán cho thấy hầu hết các dự án được kiểm toán đều phải điều chỉnh quy mô, điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư . Tình trạng chậm tiến độ xảy ra phổ biến ở nhiều dự án và có xu hướng gia tăng so với các năm trước. Việc chậm tiến độ các công trình, dự án đã làm tăng chi phí và giảm hiệu quả của các dự án đầu tư, trong đó có nhiều dự án hạ tầng quan trọng. 
- Thứ ba, Tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún chậm được khắc phục, dẫn đến nhu cầu vốn vượt quá khả năng ngân sách, nhiều dự án phải kéo dài thời gian đầu tư. Phân bổ chi tiết vốn và giải ngân chậm, không chủ động trong triển khai đầu tư; lập kế hoạch phân bổ vốn chưa chính xác, triển khai thi công chậm, hoặc không thực hiện phải điều chỉnh, giao vốn không đúng quy định .
- Thứ tư, Công tác khảo sát thiết kế, lập dự toán của các đơn vị được kiểm toán hầu hết chưa đáp ứng yêu cầu nên phải thay đổi, bổ sung thiết kế, điều chỉnh dự toán và tổng mức đầu tư; công tác thẩm định thiết kế dự toán ở hầu hết dự án được kiểm toán cho thấy còn nhiều hạn chế, chưa phát hiện và loại bỏ hết các sai sót, bất hợp lý về đơn giá, định mức, khối lượng .
- Thứ năm, tính tuân thủ trong chấp hành Luật Đấu thầu chưa cao, việc xử lý một số tình huống trong đấu thầu chưa đảm bảo quy định; tiên lượng mời thầu chưa có sự kiểm soát phù hợp để loại bỏ các sai sót; vẫn còn hiện tượng thông thầu, dàn xếp thầu ; tuy nhiên để có đủ cơ sở để kết luận thông thầu, dàn xếp kết quả đấu thầu là vấn đề rất khó khăn. 
- Thứ sáu, Công tác thanh toán và quyết toán vốn đầu tư: Hầu hết các dự án, công trình được kiểm toán có giá trị khối lượng nghiệm thu thanh toán cho các nhà thầu phải giảm trừ do những sai phạm như: nghiệm thu, thanh toán khi chưa có khối lượng; thanh toán trùng lắp, sai đơn giá, định mức làm tăng giá trị quyết toán.
- Thứ bảy, Trong công tác quản lý vốn đầu tư: một số địa phương còn để nợ về xây dựng lớn (Vĩnh Phúc); một số Ban quản lý dự án và chủ đầu tư thiếu chặt chẽ, chưa đôn đốc các đơn vị thi công thanh toán tạm ứng vốn đầu tư kịp thời, dẫn đến số chi chuyển nguồn sang năm sau lớn (Ninh Bình, Hưng Yên). Một số tỉnh sử dụng vốn trung ương bổ sung có mục tiêu không đúng mục đích, giao vốn không phù hợp với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Bắc Ninh, Hà Nam, Hòa Bình, Hà Nội .v.v) . Hầu hết các địa phương và các chủ đầu tư lập, phê duyệt báo cáo quyết toán vốn đầu tư còn chậm theo quy định.

1.4. Đánh giá hoạt động kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB do KTNN khu vực I thực hiện thời gian qua
a) Những mặt làm được
Kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB của các địa phương do KTNN khu vực I thực hiện thời gian qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ, ngoài các số liệu về tăng thu nộp ngân sách, giảm thanh toán, giảm cấp phát... quan trọng hơn đã chỉ ra những sai sót, những khoảng cách nhất định giữa các quy định pháp luật và hoạt động thực tiễn. Từ kết quả kiểm toán, đưa ra các kiến nghị xử lý các sai phạm, góp phần giúp các địa phương, Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư chấn chỉnh các sai sót, hạn chế trong quản lý đầu tư XDCB và cao hơn nữa là hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý đầu tư XDCB. Kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB đang dần xác định rõ tầm quan trọng trong hoạt động KTNN. Công tác khảo sát, thu thập thông tin lập kế hoạch kiểm toán ngày càng được chú trọng. Trong tổ chức phân công Đoàn kiểm toán NSĐP đã hình thành Tổ kiểm toán chuyên sâu về lĩnh vực đầu tư XDCB, hướng vào những vấn đề trọng yếu, có tính rủi ro cao góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán.  
b) Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB cũng đang dần bộc lộ những bất cập, cụ thể:
- Thứ nhất, việc lựa chọn các đơn vị, dự án được kiểm toán chủ yếu dựa vào tiêu thức định lượng (kinh phí, tổng mức đầu tư..). Kế hoạch kiểm toán chủ yếu mới xác định được danh mục các đơn vị, các dự án XDCB cần được kiểm toán, chưa xác định được các nội dung trọng yếu để giúp KTV xác định nội dung, thời gian và phạm vi kiểm toán. Chưa chú trọng kiểm toán tổng hợp nhằm đánh giá công tác quản lý, điều hành và việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực quản lý đầu tư XDCB của các cấp, các ngành... thuộc địa phương. 
- Thứ hai, việc xử lý tồn tại, sai phạm trong quản lý đầu tư XDCB chưa mạnh dạn chỉ ra những sai sót để quy trách nhiệm cụ thể. Đây cũng là một trong những nội dung làm giảm tính hiệu lực của các kiến nghị của KTNN.
- Thứ ba, Nội dung Báo cáo kiểm toán của KTNN còn mang tính liệt kê, chưa đi sâu đánh giá phân tích để nêu bật được bản chất của vấn đề, dẫn đến kiến nghị còn chung chung chưa sát với tình hình thực tế.
- Thứ tư, hiện nay khi triển khai cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương, KTNN thành lập đoàn kiểm toán với nhiều tổ kiểm toán (các tổ kiểm toán thu ngân sách, tổ kiểm toán chi thường xuyên, tổ kiểm toán chi đầu tư...), số lượng các tổ kiểm toán/đoàn kiểm toán phụ thuộc vào quy mô ngân sách và mục tiêu, nội dung kiểm toán. Việc tổ chức đoàn kiểm toán ngân sách như hiện nay qua thực tế đã biểu hiện những hạn chế, bất cập là: Một là, do đối tượng, phạm vi kiểm toán ngân sách đa dạng và với quá nhiều mục tiêu, nội dung kiểm toán khác nhau dẫn đến lựa chọn nhiều đơn vị được kiểm toán/cuộc kiểm toán, thời gian kiểm toán kéo dài và nhiều đầu mối gây khó khăn cho công tác quản lý, điều hành và kiểm soát chất lượng kiểm toán; Hai là, việc thực hiện quá nhiều mục tiêu kiểm toán/cuộc kiểm toán báo cáo NSNN (mục tiêu dàn trải, lồng ghép) dẫn đến kết quả việc thực hiện mục tiêu kiểm toán không cao, không sâu. Thực tế nhiều đoàn kiểm toán thực sự chưa xác nhận được tính đúng đắn, trung thực của Báo cáo quyết toán ngân sách, chưa xác nhận được tổng thu, tổng chi ngân sách; Ba là, thực tế hiện nay KTNN chưa tổ chức kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách tất cả các địa phương trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán ngân sách theo Luật KTNN. Việc chưa thực hiện được đúng quy định của Luật KTNN có nhiều nguyên nhân, nhưng có phần do cách thức tổ chức kiểm toán ngân sách như hiện nay.
 c) Nguyên nhân của những hạn chế
- Thứ nhất, Đặc thù phức tạp của lĩnh vực đầu tư XDCB, các dự án, công trình XDCB thường chiếm thời gian dài, liên quan đến nhiều niên độ; năng lực quản lý dự án của các Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư khác nhau...; trong khi đó, cơ chế tài chính, chế độ quản lý đầu tư XDCB có nhiều thay đổi... dẫn đến những khó khăn nhất định trong việc xác định nội dung, đối tượng, phạm vi và tổ chức kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại các địa phương.
- Thứ hai, Thời gian khảo sát lập kế hoạch kiểm toán về lĩnh vực đầu tư XDCB chưa phù hợp; hệ thống quy trình, chuẩn mực, hồ sơ mẫu biểu và các văn bản hướng dẫn kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại các địa phương đang dần được hoàn thiện.
- Thứ ba, KTV thực hiện kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB trong kiểm toán ngân sách địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc cả về số lượng và chất lượng.
- Thứ tư, do hạn chế về kinh phí kiểm toán, trang thiết bị, cơ sở vật chất của KTNN nên hầu như không kiểm tra nghiệm thu thực tế, không có bằng chứng cụ thể về các phần che khuất trong các công trình, dự án đầu tư. Bên cạnh đó, KTNN cũng chưa có điều kiện về kinh phí để mời chuyên gia trong các lĩnh vực đầu tư XDCB để hỗ trợ về mặt chuyên môn khi cần thiết.

2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB tại các địa phương
Để phát triển KTNN thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, góp phần đưa công tác quản lý NSNN vào nề nếp, làm minh bạch nền tài chính quốc gia, KTNN luôn phải cố gắng tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Theo chúng tôi, chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản là: (i) Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên (KTV); (ii) Hiệu lực, hiệu quả của tổ chức quản lý hoạt động kiểm toán; (iii) Chất lượng của hệ thống quy trình, chuẩn mực hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán, đây là hệ thống các văn bản nghiệp vụ trợ giúp cho KTV trong quá trình tác nghiệp và thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán. Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB theo hướng sau:

2.1. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB cho kiểm toán viên
Nhân tố quan trọng quyết định chất lượng báo cáo kiểm toán đó chính là đội ngũ KTV. Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho KTV luôn được lãnh đạo KTNN quan tâm. Tuy nhiên, chất lượng KTV hiện nay chưa đáp ứng sự phát triển của KTNN, trình độ năng lực của một số KTV còn yếu, chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Theo chúng tôi, KTNN cần giải quyết một số vấn đề chủ yếu như sau:
(1) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, KTV về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán: Hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ KTV được coi là hoạt động then chốt để hình thành và phát triển năng lực đội ngũ cán bộ KTV của KTNN, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển KTNN. Chất lượng đào tạo được thể hiện qua trình độ, năng lực của KTV thông qua các cuộc kiểm toán góp phần làm minh bạch nền tài chính công. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, KTV cần tập trung vào những vấn đề sau:
 - Xây dựng và đổi mới chương trình, nội dung đào tạo theo từng chức danh gắn với tiêu chuẩn hoá cán bộ; gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp trang bị kiến thức nghiệp vụ với việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức văn hoá nghề nghiệp, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành nhằm đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động; Bồi dưỡng, bổ sung nội dung đào tạo về lĩnh vực kiểm toán đầu tư dự án, kiểm toán chuyên đề lĩnh vực đầu tư XDCB; tăng cường đào tạo nghiệp vụ kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin;
- Đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Phát triển hình thức tổ chức tự đào tạo, đào tạo thông qua hình thức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm...;
- Có kế hoạch đào tạo trong thời gian dài một đội ngũ chuyên gia đầu ngành đối với lĩnh vực kiểm toán đầu tư XDCB; Xây dựng đội ngũ giảng viên giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện tốt công tác giảng dạy về lĩnh vực kiểm toán đầu tư xây dựng;
- Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế, tăng cường giao lưu học tập về nghiệp vụ kiểm toán  đầu tư XDCB; cử cán bộ đi tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm về tin học hoá các hoạt động kiểm toán tại một số nước tiên tiến.
Bên cạnh đó, KTNN cần thực hiện đổi mới công tác tổ chức cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ:
- Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ KTV đảm bảo chất lượng và cơ cấu ngành nghề theo Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020.
 - Định kỳ kiểm tra, sát hạch, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu chuẩn ngạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cho phù hợp. Thực hiện các quy định việc luân chuyển cán bộ, nhất là luân chuyển các vị trí cán bộ quản lý và kiểm toán viên trong thời gian 3-5 năm;
- Hoàn thiện và cập nhật đầy đủ, kịp thời thông tin về năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện tại của KTNN và trên cơ sở đó quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Xây dựng quy định về tinh giản biên chế để thực hiện được việc thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức, viên chức không đủ năng lực, trình độ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
(2) Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ kiểm toán: Để nâng cao chất lượng kiểm toán trong xu thế hội nhập, KTNN cần tiếp thu áp dụng những phương pháp kiểm toán mới, tăng cường ứng dụng rộng rãi phương pháp kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và công nghệ tin học trong hoạt động kiểm toán. Tập trung đẩy mạnh xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu điện tử về đối tượng kiểm toán, kết quả kiểm toán lĩnh vực XDCB; chú trọng xây dựng và đưa vào khai thác các phần mềm ứng dụng phục vụ hoạt động kiểm toán  đầu tư XDCB. Đồng thời, chú trọng phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để tiếp cận sử dụng công nghệ mới.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống quy trình, chuẩn mực và hồ sơ mẫu biểu kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB
Việc hoàn thiện hệ thống quy trình, chuẩn mực và hồ sơ mẫu biểu kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB là nhu cầu cấp thiết vừa góp phần nâng cao năng lực hoạt động và chất lượng, hiệu quả kiểm toán, vừa góp phần nâng cao năng lực, trình độ cho KTV, nhất là trong giai đoạn hiện nay KTNN đã thu được những kinh nghiệm sau quá trình hơn 18 năm xây dựng và phát triển.
Việc hoàn thiện hệ thống quy trình, chuẩn mực và hồ sơ mẫu biểu kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB nhằm giúp cho các KTV hoàn thành mục tiêu và chất lượng kiểm toán, nhưng đồng thời cũng giúp cho người sử dụng thông tin hiểu về công việc kiểm toán và phục vụ cho việc xem xét, đánh giá trách nhiệm pháp lý, chất lượng kiểm toán. Quy trình, chuẩn mực và hồ sơ mẫu biểu kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB cần đảm bảo yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện để KTV vận dụng vào thực tế công tác kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán nhưng cũng phải tránh khuynh hướng đi sâu vào những vấn đề quá chi tiết, quá cụ thể, gây lúng túng, khó khăn trong việc triển khai vận dụng vào các đối tượng cụ thể khác nhau và làm cho Quy trình kiểm toán bị ảnh hưởng mỗi khi có sự thay đổi nhỏ trong chính sách tài chính - kế toán, quản lý đầu tư XDCB của nhà nước. 
2.3. Nhóm giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán
Tổ chức đoàn, tổ kiểm toán phải gắn với phân công nhiệm vụ rõ ràng, gắn trách nhiệm quản lý với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phù hợp với năng lực sở trường của KTV, đảm bảo các điều kiện để có thể thực hiện các biện pháp kiểm soát hữu hiệu chất lượng hoạt động kiểm toán. Chúng tôi đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động Đoàn kiểm toán theo hướng :
a) Đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB độc lập với kiểm toán toán báo cáo quyết toán ngân sách.
Đối với kiểm toán ngân sách địa phương, cần nghiên cứu đổi mới theo hướng tách các đoàn kiểm toán theo chuyên đề :
- Kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương, kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, trung thực của số liệu quyết toán ngân sách địa phương để phục vụ cho việc phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;
- Kiểm toán quyết toán vốn đầu tư dự án theo từng lĩnh vực, tập trung kiểm toán quyết toán dự án hoàn thành phục vụ cho các mục tiêu kiểm toán cụ thể.
Khi tổ chức kiểm toán NSNN theo hướng trên sẽ thu được một số kết quả như sau: Một là, các đoàn kiểm toán ngân sách sẽ gọn nhẹ, mỗi cuộc kiểm toán NSNN sẽ do nhiều đoàn thực hiện trong kế hoạch chung nhưng có tính độc lập; các mục tiêu kiểm toán sẽ được thực hiện tốt hơn, có các nhận xét, đánh giá chuyên sâu hơn. Hai là, thời gian kiểm toán sẽ rút ngắn hơn, tạo điều kiện thực hiện mục tiêu kiểm toán trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Thời gian thực hiện kiểm toán cấp ngân sách sẽ chủ động hơn, như đoàn kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, trung thực của số liệu quyết toán được tổ chức thực hiện trước nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm toán các báo cáo quyết toán ngân sách theo Luật KTNN, còn các đoàn kiểm toán chuyên đề khác có thể thực hiện trong năm, không phụ thuộc vào niên độ ngân sách. Ba là, việc tách cuộc kiểm toán ngân sách thành nhiều đoàn kiểm toán có tính độc lập, mang tính chuyên sâu, góp phần phục vụ kịp thời yêu cầu công tác quản lý, điều hành và giám sát ngân sách của các cấp quản lý; Góp phần giúp KTNN đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên sâu theo nhiều lĩnh vực để hướng tới kiểm toán thường niên báo cáo quyết toán ngân sách địa phương.
b) Thực hiện đa dạng hóa loại hình kiểm toán, phương pháp kiểm toán nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng NSNN cho lĩnh vực đầu tư XDCB
Hiện nay, KTNN đang tập trung cho loại hình kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính trong cuộc kiểm toán NSNN, tuy nhiên để phù hợp với xu hướng phân bổ NSNN theo tiêu chí đầu ra đã đặt ra vấn đề cần đánh giá chất lượng của đầu ra đối với các đơn vị sử dụng NSNN, các dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN đồng thời Chính phủ, Quốc hội cũng rất cần thông tin đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng NSNN. Vấn đề này đặt ra cho KTNN cần phải áp dụng kết hợp loại hình kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính và coi trọng đúng mức loại hình kiểm toán hoạt động để nâng cao hiệu quả kiểm toán NSNN, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý và giám sát tài chính, ngân sách của Chính phủ, Quốc hội. KTNN cần xem xét áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động trong kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng vốn  cho đầu tư XDCB.
c) Thực hiện phương thức kiểm toán kết hợp hậu kiểm với tiền kiểm
Để KTNN có thể tham gia làm tốt nhiệm vụ của mình trong quản lý chi đầu tư XDCB đòi hỏi KTNN nên tham gia ngay từ đầu và nắm bắt thông tin về quá trình xây dựng kế hoạch tài chính và kế họach đầu tư và phát triển của các địa phương trên các mặt như: được tham gia tìm hiểu, nắm thông tin về đầu tư phát triển; có ý kiến đóng góp hoàn thiện các kế họach đầu tư phát triển; tham gia theo dõi và giám sát quá trình đầu tư hoặc kiểm toán từng phần của dự án đầu tư và các công việc có liên quan đến quản lý tài chính. Bên cạnh đó triển khai kiểm toán trước các dự toán dự án đầu tư xây dựng lớn nhằm thẩm định, đánh giá dự toán của dự án, xem xét tính khả thi, tính hiệu quả của dự án trước khi chính thức phê duyệt dự án. Tập trung thẩm định, phản biện đối với các điều kiện về tài chính, giá cả và phương án hoàn trả vốn đầu tư...
2.4. Nhóm giải pháp tăng cường quản lý hoạt động kiểm toán
Triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 14/KL-BCS ngày 11/2/2010 của Ban cán sự Đảng KTNN; Chỉ thị số 364/CTKTNN, Chỉ thị 1618/CT-KTNN của Tổng KTNN nhằm tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, khơi dậy lòng yêu ngành, yêu nghề, tự trọng nghề nghiệp của cán bộ KTV trong hoạt động kiểm toán, trong đó lưu ý tập trung thực hiện một số nội dung sau:
- Thứ nhất, Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp; cương quyết phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm trong thực thi công vụ; tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến.
- Thứ hai, Đổi mới phương pháp, hình thức và nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát chất lượng kiểm toán, trong đó lưu ý công tác tự kiểm tra kiểm soát của các KTNN chuyên ngành, khu vực. Đối với các trường hợp liên quan đến bên thứ 3 như Ban quản lý dự án, nhà thầu... cần xác định rõ nội dung, phạm vi, giới hạn và thực hiện nghiêm quy định phải báo cáo xin phép và chỉ được thực hiện khi có phê duyệt cụ thể của Trưởng đoàn kiểm toán và thực hiện nghiêm chế độ báo cáo kết quả làm việc.
- Thứ ba, Đề cao vai trò của Thủ trưởng đơn vị và gắn với trách nhiệm quản lý, điều hành, kiểm tra giám sát đội ngũ cán bộ công chức, KTV trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Nâng cao trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả của Hội đồng cấp Vụ trong việc thẩm định Kế hoạch kiểm toán và Báo cáo kiểm toán. Phát huy tốt vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Phòng Tổng hợp trong tham mưu giúp việc Thủ trưởng đơn vị kiểm soát chất lượng kiểm toán, soát xét Kế hoạch kiểm toán, Báo cáo kiểm toán trước khi ký phát hành. Tăng cường cán bộ có chuyên môn, phẩm chất đạo đức về công tác tại Phòng Tổng hợp.
- Thứ tư, Duy trì nghiêm chế độ báo cáo định kỳ về tiến độ và kết quả kiểm toán theo từng cấp; nâng cao chất lượng kiểm toán tổng hợp để đánh giá công tác quản lý điều hành và việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
- Thứ năm, Thực hiện tập huấn trao đổi nghiệp vụ trước khi triển khai kiểm toán, bố trí công việc phù hợp với nghiệp vụ chuyên môn của KTV. Thực hiện chế độ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ kiểm toán của từng KTV sau mỗi đợt kiểm toán làm cơ sở để đánh giá cán bộ hàng năm.
2.5. Một số giải pháp khác
- Cần có chính sách về kinh phí cho KTNN có đủ nguồn lực đầu tư mua sắm trang thiết bị kỹ thuật chuyên ngành xây dựng... để có thể đo đạc, kiểm tra chất lượng các công trình, dự án đầu tư XDCB và có điều kiện về kinh phí mời chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư xây dựng hỗ trợ về mặt chuyên môn khi cần thiết.
- Cần có chính sách đãi ngộ cho cán bộ KTV của KTNN phù hợp để họ yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao./.

                                                               

Xem thêm »