Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và vai trò của Kiểm toán Nhà nước

02/02/2012
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

NGUYỄN VĂN GIÀU
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội

Năm 2011 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011- 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011- 2020, cũng là năm khởi động tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 được thực hiện trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp; trong nước, thiên tai, dịch bệnh cùng với những khó khăn, hạn chế, yếu kém tích tụ từ nhiều năm qua làm gia tăng biến động không thuận về kinh tế vĩ mô, tác động đến lòng tin thị trường và người dân. Trước tình hình lạm phát, lãi suất, tỷ giá những tháng đầu năm 2011 có biến động mạnh với xu hướng ngày càng phức tạp hơn, Nghị quyết Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời có định hướng chỉ đạo và đề ra các giải pháp, nhiệm vụ phù hợp với diễn biến mới của tình hình. Theo đó, tập trung cho kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, với các biện pháp đồng bộ, cụ thể được triển khai để giảm tổng cầu của nền kinh tế như kiểm soát tổng phương tiện thanh toán xuống khoảng 15-16%, tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20%; giảm bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5% GDP, nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, rà soát để cắt giảm đầu tư công, không cho tạm ứng ngân sách...

Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, kết thúc năm 2011, chúng ta đã cơ bản kiểm soát được lạm phát, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tăng trưởng kinh tế 5,9%,  những vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô bước đầu đã chuyển biến theo hướng tích cực. Diễn biến tăng chỉ số giá tiêu dùng những tháng cuối năm đã theo chiều hướng giảm dần: nếu tháng 4/2011, CPI tăng cao nhất 3,32% thì tháng 12/2011, CPI chỉ tăng 0,53%; xuất khẩu tăng nhanh, đạt khoảng 96 tỷ USD, tăng 33% so với năm 2010 và cao gấp hơn 3 lần chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 10%, góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ nhập siêu xuống còn khoảng 9,89 % tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn so với chỉ tiêu được Quốc hội thông qua là không quá 18%; bội chi ngân sách được kiểm soát ở mức 4,9%; dự trữ ngoại hối được cải thiện.

An sinh xã hội về cơ bản được bảo đảm. Việc thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội cùng với sự tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, sự công khai, minh bạch các chính sách đã tạo được sự đồng thuận của nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo của Đảng, công tác chỉ đạo, điều hành của Nhà nước. Chính trị ổn định, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; vị thế của nước ta trong quan hệ quốc tế tiếp tục được tăng cường. 
 
Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các cân đối vĩ mô chưa thực sự vững chắc, lạm phát còn ở mức cao, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; mặt trái của việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công... đã ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, làm giảm tốc độ tăng trưởng, lãi suất tăng cao ảnh hưởng đến tiếp cận vốn vay đối với doanh nghiệp, ảnh hưởng thị trường bất động sản, chứng khoán. Đời sống của người dân, nhất là người nghèo, người lao động có thu nhập thấp còn nhiều khó khăn. Các vấn đề xã hội như tội phạm, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông vẫn gây bức xúc trong nhân dân.
 
Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng từ diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh trong nước; nhưng trực tiếp vẫn là nguyên nhân chủ quan do công tác dự báo yếu kém, chưa theo sát thực tế và bắt kịp tình hình mới; công tác quản lý điều hành còn nhiều hạn chế, chưa quan tâm, chú ý đúng mức tới chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững.

Năm 2012, dự báo tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục có những diễn biến khó lường. Trong nước, những hạn chế, yếu kém sẽ bộc lộ sâu sắc hơn nữa. Điều hành kinh tế vĩ mô sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc xử lý hài hòa giữa mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo quyết liệt, tập trung, phát huy tối đa sức mạnh nội lực của cả đất nước.

Những khó khăn, thách thức mới phát sinh cùng với những hạn chế, tồn tại của năm 2011 sẽ tiếp tục tác động không thuận đến kinh tế-xã hội nước ta năm 2012. Những vấn đề mang tính cơ cấu của nền kinh tế cần được khắc phục bằng các giải pháp đồng bộ, liên tục trong nhiều năm mà đi kèm với nó là quá trình hoàn thiện các tiền đề, điều kiện cho tái cấu trúc. Vì vậy, việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012 cần đặt trong tổng thể Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với mục tiêu tổng quát của năm 2012 là “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh, bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống người dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”.

Bước vào thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012, chúng ta có thuận lợi to lớn là đã tạo dựng được đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội về mục tiêu và các giải pháp lớn, đồng thời có thực tiễn sinh động là những thành tựu quan trọng đạt được trong năm 2011, góp phần khẳng định định hướng đúng đắn: kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết, là nền tảng căn bản để phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững.

Trong năm 2012 cần tiếp tục kiên định quán triệt quan điểm định hướng đã nêu trong Kết luận của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, có đánh giá toàn diện và có biện pháp khẩn trương xử lý những tác động không thuận của một số chính sách trong Nghị quyết 11/NQ-CP đối với nền kinh tế. Năm 2012, phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội, môi trường cao hơn năm 2011: tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 6% - 6,5%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 13%; nhập siêu khoảng 11% - 12% trên tổng kim ngạch xuất khẩu, trong điều kiện cho phép, phấn đấu giảm nhập siêu xuống dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu và không quá 10 tỷ USD; bội chi ngân sách phấn đấu dưới 4,8% GDP; chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%; tạo việc làm mới 1,6 triệu và giảm hộ nghèo thêm 2%.

Quan điểm phát triển trong tình hình mới mà Đảng đã xác định trong Chiến lược KT-XH 2011 – 2020 thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững, coi phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt. Trong mô thức phát triển mới, ổn định vĩ mô là nền tảng căn bản, thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ là những yếu tố nội sinh quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn của nước ta. Do đó, thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp Quốc hội đề ra cho năm 2012 sẽ là điều kiện tiên quyết, tạo tiền đề vĩ mô vững chắc cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, tạo đà cho quá trình thực hiện toàn diện, lâu dài và có hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong những năm tiếp theo.

Trong giai đoạn 2012-2015, cần xử lý thỏa đáng giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế trước mắt với yêu cầu phát triển bền vững. Xây dựng lộ trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, tránh duy ý chí, làm tăng giá thành đầu tư, giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam. Tăng cường công tác tuyên truyền để thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Để phù hợp với diễn biến mới của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, việc triển khai thực hiện Kế hoạch 5 năm cần được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu (2-3 năm tới), quan điểm chỉ đạo là thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý và tiến hành bước khởi động mạnh mẽ tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; Giai đoạn tiếp theo (2-3 năm sau), quan điểm chỉ đạo là phát triển bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú trọng cân đối vốn đầu tư để thực hiện dứt điểm trong 2-3 năm đối với công trình trọng điểm.

Cần tạo điều kiện hơn cho 3 đột phá chiến lược, bám sát 12 định hướng lớn trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, đồng thời tập trung một số chỉ tiêu, nhiệm vụ chủ yếu theo 3 trục cơ bản là: tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tập trung nguồn lực tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng hiệu quả, bền vững và bảo đảm an sinh xã hội, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc, cụ thể:

1. Về tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô
Kiểm soát để bảo đảm tương thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng dư nợ tín dụng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng. Phấn đấu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10% trong năm 2012 và tăng khoảng 5%-7% vào năm 2015. Mục tiêu này đề ra trên cơ sở đã cân nhắc việc điều chỉnh giá điện, than, xăng dầu và giá một số dịch vụ công theo cơ chế thị trường là cơ sở để kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng bình quân trong Kế hoạch 5 năm tiếp theo dưới 5%/năm.

Đồng thời, tiếp tục khuyến khích xuất khẩu, có biện pháp phù hợp với các quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) để kiểm soát nhập khẩu, giảm mạnh nhập siêu; có quy định việc chi tiêu mua sắm, đầu tư công phải sử dụng những hàng hóa, thiết bị, máy móc đã sản xuất được trong nước; thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để giảm dần nhập siêu từ năm 2012 và phấn đấu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015, góp phần giữ vững sự ổn định tỷ giá.

Cần cơ cấu lại thu-chi ngân sách một cách có hiệu quả, bền vững, theo đó bội chi ngân sách nhà nước đạt dưới 4,5% vào năm 2015 (mức bội chi có cộng thêm trái phiếu Chính phủ); Tỷ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách không quá 22%-23% GDP/năm.

2. Về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Xây dựng và hoàn thiện đề án cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở, sản phẩm chủ yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể. Tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính; cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Ngay từ năm 2012 tiến hành bước khởi động và chuẩn bị các điều kiện để từ năm 2013 tạo được chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản; năm 2015 có hiệu quả rõ rệt.

Thực hiện việc cắt giảm đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội để ổn định kinh tế vĩ mô trước mắt và lâu dài, song song với đó là nâng cao chất lượng đầu tư công và khuyến khích đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Phấn đấu nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 50% GDP, dư nợ quốc gia không quá 50% GDP. 

Các giải pháp tái cấu trúc doanh nghiệp, trong đó trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước, cần gắn kết chặt chẽ giữa đổi mới thiết bị công nghệ với đổi mới mô hình tổ chức và mô hình quản trị, bảo đảm phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của toàn bộ nền kinh tế và xu hướng vận động của mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Mục tiêu là dịch chuyển từ việc phụ thuộc vào các yếu tố động lực theo chiều rộng như vốn, tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp sang yếu tố động lực theo chiều sâu, nâng cao mức đóng góp của các yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng, tạo chuyển biến rõ rệt, mạnh mẽ trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, từ đó giảm dần tỷ trọng đầu tư toàn xã hội 5 năm 2011-2015 ở mức khoảng 33,5%-35% GDP trong khi vẫn bảo đảm tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ở mức 6,5%-7%. Đến năm 2015, giảm tiêu tốn năng lượng tính trên GDP từ 2,5%-3%/năm; tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 30% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; tỷ lệ đổi mới công nghệ đạt 13%/năm; và năng suất lao động xã hội đến tăng 29%-32% so với năm 2010.

3. Về bảo đảm an sinh xã hội
Giảm nghèo, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, tuy nhiên, những kết quả này vẫn chưa vững chắc. Trong những năm tới đây cần tiếp tục chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm chênh lệch giàu nghèo, nâng cao mức sống đối với người có công; tập trung giải quyết những bức xúc trong nhân dân, nhất là trong việc giải tỏa đền bù thu hồi đất và những tiêu cực trong y tế, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Huy động các nguồn lực xã hội cho công tác giảm nghèo; có giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc. Rà soát tổng thể các chính sách an sinh xã hội, trọng tâm là củng cố và hoàn thiện mạng lưới an sinh xã hội với 3 nội dung: an sinh về việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chính sách bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.

Mục tiêu đến 2015 tạo việc làm cho 8 triệu người; giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị đến năm 2015 dưới 4%; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế lên 55%. Bảo đảm thu nhập thực tế của người dân đến năm 2015 tăng gấp 2-2,5 lần so với năm 2010; đồng thời thực hiện giảm hộ nghèo nhanh và bền vững, tỷ lệ giảm bình quân 2%/năm và giảm bình quân 4%/năm đối với các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn.

Nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra cho năm 2012 và giai đoạn 2011-2015 là hết sức nặng nề; tổ chức thực hiện tốt những giải pháp đã xác định trong Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, mà trước hết là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2012 đòi hỏi sự vào cuộc của các ngành, các cấp và toàn thể hệ thống chính trị. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước như một công cụ mạnh và là cơ quan cao nhất về kiểm tra tài chính nhà nước và hết sức quan trọng, nhất là đối với việc thiết lập cơ chế giám sát tài chính – tiền tệ, bảo đảm an ninh tài chính Quốc gia, kiểm soát các nguồn vốn, các khoản vay nợ, trả nợ và tăng cường công khai, minh bạch tài chính công, tài chính DNNN.

Thực tế cho thấy, trong suốt quá trình hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã cung cấp thông tin kiểm toán tin cậy, trung thực, chính xác và kịp thời, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành của Chính phủ, yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nói chung và Ủy ban Kinh tế nói riêng trong công tác lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong giai đoạn tới đây, để Kiểm toán Nhà nước từng bước tiến lên hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, thực sự trở thành công cụ mạnh của Nhà nước, chúng tôi đề xuất: Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước thông qua việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, theo đó xác định rõ sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mang tính hiến định của Kiểm toán Nhà nước trong việc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán các hoạt động quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản quốc gia. Rà soát, sửa đổi bổ sung những quy định còn vướng mắc, chưa thống nhất giữa Luật Kiểm toán Nhà nước và các luật có liên quan. Đối với Kiểm toán Nhà nước cần đổi mới cách thức và phương pháp hoạt động, tập trung hơn nữa vào kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước tại các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc biệt, cần chú trọng đánh giá tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngăn ngừa và kiểm soát lãng phí, đánh giá hiệu lực của việc tuân thủ chính sách chế độ của nhà nước về quản lý chi tiêu, chủ động đề xuất các biện pháp quản lý nhằm xác định nguyên nhân và giải pháp khắc phục tổn thất đến cả đơn vị chịu kiểm toán cũng như các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan, nhất là:

- Kịp thời phát hiện những rủi ro tiềm ẩn trong quy trình quản lý, điều hành, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; chủ động lên kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và cung cấp những địa chỉ chi tiêu công, sử dụng tài sản công lãng phí và hiệu quả đến các cơ quan chức năng cũng như công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào tiết kiệm toàn xã hội cả trong sản xuất và tiêu dùng, siết chặt trật tự kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát, nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn nhà nước, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý.

- Chủ động kiểm toán và kiến nghị cơ cấu lại các khoản chi, cắt giảm chi mua sắm tài sản công không cấp bách, tạm dừng các công trình chưa thực sự quan trọng để tập trung cho các khoản chi đầu tư có hiệu quả và các khoản chi cho sản xuất, an sinh xã hội. Thông qua kiểm toán hằng năm đối với ngân hàng nhà nước, một số ngân hàng thương mại nhà nước, chủ động đánh giá và có các giải pháp góp phần tăng cường kiểm soát an toàn hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.

- Tiếp tục tăng cường quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan, nhất là trong phối hợp hoạt động với các cơ quan của Quốc hội nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán, hiệu lực của các kết luận và kiến nghị kiểm toán, đồng thời góp phần tăng cường năng lực hoạt động giám sát của Quốc hội./.

Theo Tạp chí Kiểm toán số 1/2012
 

Xem thêm »