Hiệu quả đã rõ, nhưng nhiều địa phương chưa đạt mục tiêu
Theo báo cáo của KTNN chuyên ngành V, thời gian vừa qua đơn vị đã tổ chức tiến hành kiểm toán Chương trình MTQG NS&VSMTNT tại 4 Bộ, 2 ngân hàng và 18 tỉnh.
Đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và thực hiện Chương trình, báo cáo kiểm toán cho thấy, tại các tỉnh được kiểm toán, việc lựa chọn địa điểm đầu tư các công trình cơ bản phù hợp với yêu cầu của Chương trình, đó là ưu tiên cấp nước tập trung cho những vùng mật độ dân số cao; nâng cấp và mở rộng các công trình hiện có; lựa chọn giải pháp công nghệ phù hợp với điều kiện từng vùng; các công trình cấp nước sinh hoạt đã mang lại hiệu quả cho người dân trong vùng dự án, giải quyết tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt, góp phần cải thiện đời sống, giảm dịch bệnh. Bên cạnh đó, việc thực hiện lồng ghép một số chương trình và dự án khác (trên cùng địa bàn) đã đem lại hiệu quả lớn về mặt xã hội, bước đầu góp phần thay đổi chất lượng cuộc sống và bộ mặt nông thôn, thực hiện xóa đói giảm nghèo, hiện đại hóa nông thôn...
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng đánh giá chung, kết quả thực hiện Chương trình trong năm 2012 tại các tỉnh được kiểm toán chưa đạt so với mục tiêu đề ra, trong đó chỉ số về vệ sinh môi trường đạt kết quả thấp, cụ thể: tỷ lệ số dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh năm 2012 thực hiện chỉ đạt 89 và tỷ lệ số hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đáp ứng tiêu chuẩn chỉ đạt 57 so với kế hoạch năm. Đáng chú ý, một số chỉ số về vệ sinh môi trường đạt kết quả thấp như tỷ lệ trường học có công trình nhà tiêu hợp vệ sinh theo tiêu chuẩn chỉ đạt 17 so với kế hoạch năm; các công trình công cộng (chợ, trụ sở UBND xã) có nước và nhà tiêu hợp vệ sinh theo tiêu chuẩn đạt tỷ lệ 51,3 so với kế hoạch năm... Bên cạnh đó, tại một số tỉnh, do không có công trình cấp nước hoàn thành trong năm nên số liệu thống kê số người được sử dụng nước hợp vệ sinh tăng thêm thực chất là số người dân sử dụng nước giếng khoan, giếng đào hoặc đấu nối thêm vào các công trình nước hiện có. Như vậy chưa thực hiện được mục tiêu về nước sạch bằng nguồn vốn đầu tư của Chương trình năm 2012.
Hạn chế, bất cập và một số kiến nghịBáo cáo kiểm toán cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế cần khắc phục trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình. Cụ thể, trong công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện Chương trình, các cơ quan chức năng chưa sửa đổi, bổ sung và ban hành kịp thời một số cơ chế, chính sách; chưa hoàn thành theo đúng thời gian một số dự án quy hoạch cấp nước vùng trình cấp thẩm quyền phê duyệt, hoặc có dự án thiếu nội dung quy hoạch chi tiết cho các vùng trên phạm vi toàn quốc. Tại các địa phương được kiểm toán, một số tỉnh còn tình trạng chưa thành lập Ban điều hành Chương trình theo quy định hoặc chưa ban hành quy chế hoạt động của Ban điều hành; một số nơi Ban điều hành có biểu hiện chưa nắm được đầy đủ các hoạt động của Chương trình, chưa xây dựng và ban hành mục tiêu giai đoạn 2012-2015 cũng như mục tiêu hàng năm của địa phương.
Trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình tại một số địa phương được kiểm toán, sự phối hợp giữa các ngành Nông nghiệp - Y tế - Giáo dục và Đào tạo chưa thường xuyên, chưa chặt chẽ, chưa phát huy đúng mức vai trò của từng ngành. Sự phối hợp giữa các chủ đầu tư xây dựng công trình với cơ quan thường trực Chương trình trong việc báo cáo tình hình triển khai cũng như kết quả thực hiện (tiến độ xây dựng, nghiệm thu, thanh toán,...) cũng chưa tích cực, làm ảnh hưởng đến việc tổng hợp, báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện chung.
Về công tác quản lý, điều hành, sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình, tại một số địa phương đã phê duyệt đầu tư nhiều công trình cấp nước sinh hoạt với tổng giá trị dự toán lớn vượt khả năng so với kế hoạch vốn đầu tư; việc phân bổ nguồn vốn tại một số tỉnh còn dàn trải, công tác điều chỉnh vốn chưa kịp thời dẫn đến có dự án thiếu vốn nhưng cũng có dự án còn dư kinh phí không sử dụng hết. Trong bố trí vốn, tỷ lệ nguồn vốn ngân sách địa phương phân bổ cho các công trình tại các tỉnh còn thấp, 11/18 tỉnh được kiểm toán không bố trí nguồn ngân sách địa phương cho Chương trình.
Đối với công tác quản lý đầu tư xây dựng các công trình, ở một số địa phương có tình trạng khảo sát, thiết kế, dự toán chưa phù hợp với thực tế, phải điều chỉnh, bổ sung làm tăng giá trị hoặc lãng phí vốn đầu tư công trình. Đặc biệt, tiến độ thi công ở một số công trình cấp nước chậm so với kế hoạch; việc nghiệm thu, thanh toán chưa đúng với khối lượng thực tế thi công cũng như đơn giá, định mức xảy ra ở hầu hết các đơn vị được kiểm toán.
Về tình hình thực hiện các điểm chuẩn theo yêu cầu của nhà tài trợ, theo đánh giá của Đoàn kiểm toán, các khoản chi phí cho các hoạt động của Chương trình cơ bản phù hợp với chế độ, định mức quy định; các khoản chi tiêu sai chế độ phải thu hồi chiếm 0,22 so với các khoản chi đề nghị quyết toán; công tác vận hành và bảo dưỡng công trình cấp nước tập trung cơ bản đã được tổ chức quản lý vận hành, duy tu, bảo dưỡng theo quy trình. Tuy nhiên, ở một số địa phương chưa chú trọng việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng các công trình cấp nước tập trung dẫn đến nhiều công trình bàn giao đưa vào vận hành sau một thời gian đã hư hỏng.
Từ kết quả kiểm toán, Đoàn kiểm toán đã kiến nghị các chủ đầu tư, đơn vị dự toán được kiểm toán giảm trừ thanh toán, quyết toán các công trình đầu tư bằng vốn của Chương trình với tổng số tiền gần 8,3 tỷ đồng. Bên cạnh đó, kiến nghị chấn chỉnh đối với công tác quản lý, chỉ đạo Chương trình; công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và công tác quản lý tài chính, kế toán. Đoàn kiểm toán cũng yêu cầu UBND các tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành và các chủ đầu tư, đơn vị dự toán của tỉnh thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của KTNN, khắc phục những hạn chế, tồn tại đã nêu trong báo cáo kiểm toán; quan tâm phân bổ ngân sách cho công tác NS&VSMTNT; kiện toàn bộ máy tổ chức, điều hành theo quy định; tăng cường sự phối hợp giữa các ngành nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình. Ngoài ra, cũng kiến nghị Cơ quan Thường trực Chương trình ở Trung ương cần sớm xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật về cấp nước nông thôn để các địa phương có cơ sở áp dụng.
Theo Báo Kiểm toán số 41/2013