Phạm vi và nội dung hoạt động của Kiểm toán Nhà nước

28/05/2015
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

PGS, TS. Đặng Văn Thanh
Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam


Trong tiến trình đổi mới của đất nước, có lẽ ít có ngành nghề, lĩnh vực hoạt động ở Việt Nam lại được xã hội quan tâm và kỳ vọng nhiều như hoạt động của kiểm toán, cũng ít có lĩnh vực nào phát triển nhanh và sớm có vị thế vững vàng trong kinh tế thị trường như hoạt động kế toán và kiểm toán, trong đó có kiểm toán nhà nước. Kế toán có nhiệm vụ tổ chức và cung cấp thông tin kinh tế tài chính tin cậy trong các quyết định kinh tế của nhà quản lý, nhà đầu tư; kiểm toán, với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ công cụ quản lý kinh tế, một nghề nghiệp, một lĩnh vực dịch vụ với chức năng kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy của thông tin cho người sử dụng thông tin, chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam trong thời gian đầu đổi mới - cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Nhưng có thể sự ra đời đúng lúc, thỏa mãn yêu cầu, kỳ vọng của xã hội; có định hướng phát triển rõ ràng và được chuẩn bị kỹ lưỡng, trí tuệ, tâm huyết nên các loại hình kiểm toán lần lượt được ra đời ở Việt Nam, được xác nhận về pháp lý và đều có những bước phát triển vững chắc, sớm khẳng định vị thế trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập.

Sự nghiệp cải cách hệ thống kế toán Việt Nam được sự quan tâm và chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ ngay từ những năm đầu đổi mới kinh tế đã tạo lập hệ thống kế toán phù hợp với kinh tế thị trường của Việt Nam. Khởi đầu bằng cuộc cải tiến 1988-1989 và cải cách toàn diện sâu sắc, triệt để năm 1994 -1995, kế toán Việt Nam đã có những bước đi đúng, bền vững trong cơ chế kinh tế mới. Sau công cuộc cải tiến hệ thống kế toán Việt Nam theo yêu cầu kinh tế thị trường là sự ra đời của Pháp lệnh Kế toán và Thống kê (1988), văn bản pháp lý cao nhất trong lĩnh vực này. Năm 1991, hai công ty kiểm toán độc lập đầu tiên trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập và chỉ sau hơn 20 năm, đã có trên 200 công ty kế toán, kiểm toán trong nước và hầu hết các công ty kế toán, kiểm toán lớn trên thế giới đã hoạt động ở Việt Nam (bigsix rồi sau đó là bigfour). Năm 1994, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) được thành lập và đi vào hoạt động. Năm 1997, kiểm toán nội bộ được hình thành ở Việt Nam và phát triển cùng với kiểm tra kế toán.  

Có thể thấy, những năm gần đây, trong đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã xuất hiện một kênh thông tin mới được xã hội và nhân dân rất quan tâm. Đó là việc công khai kết quả kiểm toán tài chính nhà nước của KTNN. Người dân và xã hội có thêm thông tin và sự đánh giá về tình hình tài chính nhà nước, tài chính quốc gia và trực diện là tình hình quản lý, tập trung, sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN). Đây là những đánh giá mang tính chuyên môn, khách quan về sự tin cậy của thông tin tài chính, sự chuẩn xác của các khoản thu, chi ngân quỹ, thu chi NSNN; đồng thời cũng thấy rõ những sai phạm, những khiếm khuyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ quản lý và sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước, của nhân dân cho việc công, cho lợi ích chung. Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) sử dụng kết quả KTNN cho các quyết sách và điều hành đất nước. Nhân dân xem xét, đánh giá kết quả kiểm toán để củng cố lòng tin về sự minh bạch của Chính phủ, góp thêm tiếng nói và dư luận để cảnh báo, răn đe và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân quản lý và sử dụng NSNN, chịu trách nhiệm trước dân, trước Nhà nước. Có thể nói, sự hình thành hệ thống kiểm toán ở Việt Nam, mà trước hết là kiểm toán độc lập, sau đó là KTNN là một đòi hỏi và là một tất yếu khách quan trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát tính hình thu, chi và quản lý NSNN, tình hình quản lý và sử dụng các quỹ quốc gia, các nguồn lực tài chính công, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, đấu tranh chống tệ lãng phí, tham nhũng trong nền kinh tế.

Với chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của thông tin về ngân quỹ nhà nước, về số liệu NSNN; kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lý, sử dụng NSNN và tài sản công của các đơn vị, tổ chức có sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, KTNN đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, giảm chi và đưa vào quản lý qua NSNN nhiều nghìn tỷ đồng. Đó là những kết quả trực diện, có giá trị rất cụ thể. Nhưng điều có ý nghĩa quan trọng hơn chính là kết quả kiểm toán đã cung cấp những thông tin kịp thời, có độ tin cậy và tính thuyết phục cao cho Quốc hội, Chính phủ, HĐND và Uỷ ban nhân dân các cấp trong quá trình quản lý, điều hành và sử dụng NSNN, nhất là quá trình quyết định dự toán NSNN, quyết định phương án phân bổ ngân sách, phê chuẩn quyết toán NSNN. Đồng thời, kết quả kiểm toán đã giúp các Bộ, ngành và các cơ quan có căn cứ đánh giá, đúc rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính trung thực, minh bạch, hiệu quả, kinh tế và tiết kiệm. Kiểm toán đã phát hiện nhiều sơ hở, bất hợp lý về cơ chế chính sách hiện hành trong lĩnh vực quản lý điều hành ngân sách, trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình, dự án v.v.. để kịp thời kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội và cơ quan chức năng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế chuyển đổi, góp phần hoàn thiện và nâng cao quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã giúp các đơn vị được kiểm toán có cái nhìn toàn diện và đúng đắn hơn về thực trạng tài chính, về chất lượng công tác quản lý kinh tế tài chính, kịp thời phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các biểu hiện cố tình vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế, tiền và tài sản của Nhà nước, góp phần tích cực, có hiệu quả vào cuộc đấu tranh chống gian lận, tham nhũng và lãng phí, hạn chế thất thoát tài sản, tiền bạc của dân, của nước.    

1. Kiểm toán tài chính, kiểm toán báo cáo tài chính

Trước hết, KTNN đã khẳng định vai trò, vị trí trong hệ thống các cơ quan kiểm tra, kiểm soát tài chính của Nhà nước; khẳng định sự phù hợp trong tiến trình cải cách hành chính ở nước ta và hội nhâp kinh tế quốc tế.

Về mặt pháp lý, KTNN là công cụ để tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý, sử dụng NSNN, tiền và tài sản nhà nước, góp phần làm lành mạnh, minh bạch hoá nền tài chính quốc gia. Hoạt động KTNN phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước.

Về nguyên tắc, KTNN hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và trung thực, khách quan. Đây là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt quá trình hoạt động của KTNN, đảm bảo cho KTNN hoạt động có hiệu quả, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính và thông lệ quốc tế.

Trong cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia, tài chính luôn luôn là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế, là tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính - tiền tệ. Tài chính không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển, khai thác các nguồn lực; thúc đẩy, duy trì tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước. Với chức năng tập trung, phân phối, giám đốc bằng đồng tiền và tổ chức luân chuyển vốn, nguồn vốn, tài chính là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế gắn với phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ trong quá trình hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã hoạch định.

Tài chính, mà biểu hiện cụ thể là các quỹ tiền tệ được hình thành qua phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, thực chất là công cụ phân phối sản phẩm quốc dân. Thông qua phân phối tài chính, mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng được xác lập và từ đây, các quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân được xác lập. Các quan hệ tài chính luôn giữ vai trò trung tâm trong quá trình thực hiện các giải pháp nhằm ổn định tiền tệ, bình ổn vật giá, nâng cao sức mua và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua các quan hệ phân phối, tài chính được sử dụng như một công cụ sắc bén điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Tài chính, trong đó tài chính nhà nước, NSNN là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành của nền kinh tế được tiền tệ hoá, tài chính tham gia vào quá trình thực hiện các định hướng kinh tế của Nhà nước và hướng dẫn các hoạt động kinh doanh, điều chỉnh các quan hệ kinh tế. NSNN là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô toàn diện các quan hệ kinh tế. Vai trò của tài chính nhà nước, của NSNN trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở hai mặt. Trước hết, tài chính nhà nước, NSNN là quỹ tiền tệ lớn, tập trung và là tiềm lực kinh tế, là thực lực kinh tế của Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thứ đến, tài chính nhà nước, trong đó có NSNN tham gia trực tiếp vào quá trình điều tiết kinh tế thông qua chính sách động viên (động viên qua thuế, phí, lệ phí, từ tài trợ, từ quỹ dự trữ tài chính ...), bố trí cơ cấu đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, hỗ trợ khuyến khích sản xuất trong nước, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, tham gia chính sách giá, tỷ giá và lãi suất tín dụng ...

Tài chính nhà nước bao gồm trước hết là NSNN mà biểu hiện cụ thể là các quỹ NSNN, sau đó là các quỹ tập trung, quỹ chuyên dùng, tài sản và ngân quỹ của Nhà nước, và cuối cùng là hoạt động tín dụng nhà nước, trong đó có ngân quỹ mà Nhà nước, Chính phủ vay, cho vay và trả nợ tiền vay. Riêng các quỹ tập trung và quỹ chuyên dùng của Nhà nước, thuộc quyền quản lý của Nhà nước, thường được gọi là các quỹ ngoài NSNN hiện nay đã có xấp xỉ 40 quỹ, có quỹ có số vốn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn, hàng chục nghìn tỷ đồng, như Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Dự trữ tài chính, Quỹ Tích luỹ trả nợ nước ngoài, Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ Phát triển khoa học công nghệ, Quỹ môi trường...   

Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, thực hiện chế độ trách nhiệm của các đơn vị quản lý, sử dụng tài chính nhà nước, ngân quỹ nhà nước; chủ động đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng và những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

Quyền lực và tài chính luôn gắn chặt với nhau. Tài chính nhà nước xuất hiện cùng với sự hình thành nhà nước. Có thể nói, quyền lực chính trị và quyền lực tài chính đã tự hình thành và cùng phát triển, thậm chí quyền lực tài chính còn thường quyết định phạm vi quyền lực chính trị. Chính việc tạo lập các sắc thuế đầu tiên đã dẫn đến việc tổ chức các hình thái ban đầu của nhà nước và thuế khoá cũng là nguyên nhân của các cuộc cách mạng làm biến đổi sâu rộng nền chính trị ở các quốc gia.

Nói cách khác, tài chính nhà nước thực chất mang tính chính trị. Tài chính nhà nước có lịch sử lâu đời với một mục tiêu cơ bản, mang tính xuyên suốt là công khai, minh bạch. Sự minh bạch, tin cậy về tài chính luôn luôn gắn liền một cách có hệ thống với tính chất của mối quan hệ xã hội. Chính vì vậy, tài chính nhà nước được coi là một công cụ ưu tiên trong việc phân tích và tạo lập các xã hội có tổ chức và đưa ra phương thức hoạt động mới.

Hiện nay, các quốc gia đang chứng kiến và đối mặt với một sự thay đổi rất sâu rộng về phương thức tổ chức các hệ thống tài chính và sự thay đổi đang dần lan toả ra khắp thế giới. Tất cả các nền kinh tế, dù là phát triển hay đang phát triển đều phải đối mặt với vấn đề cải cách tài chính nhà nước và do ảnh hưởng mang tính hệ thống, cuộc cải cách này lại tác động ngược trở lại, lan từ nước này sang nước khác, khiến cho cơ chế tài chính nhà nước ngày càng trở nên tương đồng.

Có thể nhận thấy, trên cơ sở cải cách các định chế tài chính, chính nhà nước cũng đang trải qua một thời kỳ biến đổi sâu sắc. Ở Việt Nam, cải cách tài chính nhà nước là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước và cải cách thể chế nhà nước. Nhưng cũng phải thấy, cải cách tài chính không phải là sự điều chỉnh, sắp đặt thuần tuý mang tính kỹ thuật. Đó chính là một hình thức quản lý mới đang dần được hình thành thông qua cải cách tài chính với khuôn mẫu là mô hình quản trị doanh nghiệp.

Phải nói rằng, tài chính nhà nước là tổng hoà của nhiều quy trình đan xen, chồng chéo nhau giữa tác nhân quốc gia và quốc tế hết sức đa dạng. Cần suy nghĩ tìm tòi và hình thành một học thuyết, một phương thức về quản lý tài chính nhà nước, bởi vì xét trên cả khía cạnh kinh tế và chính trị, phương thức quản lý tài chính công có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng sống của không chỉ hôm nay mà của cả các thế hệ tương lai.

Vấn đề của một nền tài chính quốc gia lành mạnh là đảm bảo sự kết hợp giữa một bên là quy trình ra quyết định về tài chính nhà nước, về NSNN một cách dân chủ, minh bạch và một bên là cơ chế quản lý nhà nước hợp lý, hiệu quả. Để đảm bảo có dân chủ thực sự về ngân quỹ, NSNN cũng như nâng cao tính hiệu quả trong quản lý tài chính thì hệ thống tài chính phải công khai, minh bạch, các chủ thể quản lý và chính trị thực sự được đảm bảo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Như vậy, công khai, minh bạch, kiểm tra, kiểm soát và trách nhiệm là những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện phương thức quản lý mới trong tài chính hướng tới mục tiêu quản lý tốt thu chi ngân sách, ngân quỹ nhà nước. Tăng cường quản lý tài chính nhà nước trong bối cảnh cải cách nền hành chính quốc gia chính là tăng cường khả năng của Nhà nước trong điều tiết phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
   
KTNN cần xứng đáng và thoả mãn tốt hơn kỳ vọng của công chúng và tham gia cùng Nhà nước, nhân dân duy trì một nền tài chính quốc gia có tiềm lực mạnh, minh bạch, hiệu quả, tăng cường quản lý và hiệu quả của tài chính nhà nước. Nội dung và phạm vi trước hết, quan trọng nhất của KTNN là kiểm toán tài chính hay còn gọi là kiểm toán báo cáo tài chính.

KTNN, với chức năng kiểm tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp, độ tin cậy của các thông tin, số liệu về NSNN, về hoạt động tài chính nhà nước sẽ góp phần nâng cao chất lượng, độ tin cậy của thông tin tài chính - kế toán. Thông tin về tài chính nhà nước, về NSNN phải bao hàm cả NSNN và các quỹ tài chính tập trung. Thông tin về NSNN phải bao gồm cả dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và sử dụng ngân sách. Thông tin và ý kiến của KTNN cung cấp cho Chính phủ, Quốc hội, làm các căn cứ cho việc xem xét và đề ra các quyết định ở tầm vĩ mô, thực hiện việc giám sát các hoạt động tài chính, phân bổ và sử dụng nguồn lực.

Bằng hoạt động chuyên môn, KTNN chỉ ra cái được, cái chưa được trong quản lý thu, chi NSNN với bằng chứng pháp lý, nghiệp vụ chuyên môn xác nhận số đúng, số tin cậy của thu chi công quỹ, dự toán thu, chi; của số thực thu, thực chi trong quyết toán ngân sách để Quốc hội, HĐND xem xét, thảo luận, quyết định. Quyết định của Quốc hội, của HĐND được dựa trên nhiều căn cứ, không chỉ kinh tế mà còn cả chính trị, xã hội. Những căn cứ mang tính chuyên môn, có chứng lý của KTNN rất quan trọng. Quốc hội, HĐND chỉ có thể thực hiện tốt chức năng, chỉ có thể đảm bảo được thực quyền trong các quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách, phê chuẩn quyết toán và giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, của HĐND về tài chính, ngân sách khi nhận được sự trợ giúp đắc lực của cơ quan chuyên môn. Với hoạt động độc lập, theo nguyên tắc khách quan và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN là công cụ quan trọng thực hiện quyền lực của nhân dân bằng kiểm kê và kiểm soát trong xây dựng và quản lý đất nước. Ý kiến và sự xác nhận của KTNN là sự đảm bảo độ tin cậy của các thông tin tài chính.

2. Triển khai mạnh mẽ kiểm toán hoạt động

KTNN ở tất cả các nước trên thế giới trong giai đoạn đầu hoạt động đều chỉ tập trung vào loại hình kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC). Kiểm toán BCTC được coi là loại hình kiểm toán truyền thống của KTNN. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các tổ chức tài chính cho thấy việc kiểm tra, đánh giá tính trung thực, hợp pháp của BCTC (kiểm toán BCTC) chưa cho phép đánh giá đầy đủ về hoạt động của một tổ chức và do vậy, những thông tin của kiểm toán giúp cho công tác quản lý rất hạn chế. Vì vậy, các nước đã mở rộng dần nội dung kiểm toán, gồm cả kiểm toán BCTC, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động (KTHĐ). Hiện nay ở các nước có trình độ quản lý phát triển cao thường chú trọng đến KTHĐ.   

Các kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm giải trình về những quyết định của những người chịu trách nhiệm thu chi tài chính nhà nước trước đại biểu dân cử (Quốc hội, HĐND). Để thoả mãn sự mong đợi đó, các nước tiến hành triển khai KTHĐ.

KTHĐ là một lĩnh vực trong hoạt động kiểm toán. Trong thực tiễn, các chuyên gia kiểm toán đã và đang sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ KTHĐ: kiểm toán toàn diện, kiểm toán giá trị đồng tiền, kiểm toán quản lý, kiểm toán tác nghiệp, kiểm toán 3E (KTHĐ). Tuy nhiên, các định nghĩa về KTHĐ đều thống nhất với nhau về nội dung trọng tâm của KTHĐ là tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực.

- Theo INTOSAI: KTHĐ là một hoạt động trí thức, vấn đề chất lượng và đảm bảo chất lượng đóng một vai trò quan trọng trong tất cả các hoạt động của nó. KTHĐ được áp dụng rộng rãi cho tất cả các cuộc kiểm toán Chính phủ (CM 50).

- Theo chuẩn mực cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ (GAO): KTHĐ là kiểm toán tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực, và kiểm toán chương trình.

Tính kinh tế: là việc giảm thiểu tối đa chi phí mua sắm các nguồn lực đầu vào mà vẫn đảm bảo được mục tiêu của hoạt động; tính hiệu quả: là việc sử dụng tối thiểu các nguồn lực đầu vào cho một mức đầu ra cho trước hay tối đa hoá các sản phẩm đầu ra với mức đầu vào cho trước. Như vậy tính hiệu quả phản ánh mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra, nó liên quan đến quá trình sử dụng các nguồn lực; tính hiệu lực: thể hiện mức độ thực hiện các mục tiêu đề ra của hoạt động. Như vậy, tính hiệu lực phản ánh sự tác động kết quả của những sản phẩm dịch vụ đầu ra của hoạt động so với những mục tiêu dự định của hoạt động. Tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực có mối quan hệ mật thiết, phản ánh tính thống nhất trong toàn bộ quá trình thực hiện một hoạt động.

Một số nhà nghiên cứu về KTHĐ còn đề cập đến vấn đề đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực cùng với việc đánh giá trách nhiệm của nhà quản lý và sự tuân thủ pháp luật và các quy trình trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động. Sự tuân thủ pháp luật và các quy định trong hoạt động của mỗi đơn vị, đặc biệt là của các tổ chức công được coi như một điều kiện, một cơ sở cho hoạt động. Do vậy, trên góc độ kiểm toán, việc xác định sự tuân thủ pháp luật và những quy định trong quá trình quản lý của đơn vị được coi như là một cơ sở, một điều kiện để đánh giá đúng đắn tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực.

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu về KTHĐ như sau: KTHĐ là hoạt động kiểm toán trong đó chủ thể kiểm toán hướng đến việc kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực trong quá trình quản lý và sử dụng các nguồn lực kinh tế cho một hay toàn bộ hoạt động của đơn vị được kiểm toán.

Luật KTNN hiện hành của Việt Nam quy định: “KTHĐ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước”.    

Cần xác định rõ ràng mục tiêu kiểm toán là cơ sở cho chủ thể kiểm toán xác định đối tượng, phạm vi, phương pháp, trình tự kiểm toán. Các mục đích của KTHĐ đều phản ánh sự liên hệ với một trong 3 nội dung hoặc kết hợp cả 3 nội dung về tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực của hoạt động cần kiểm toán. Triển khai sớm và đẩy mạnh kiểm toán hoạt động chính là để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực của chính sách, của các hoạt động tài chính quốc gia;  kiểm tra, đánh giá trách nhiệm của người quản lý trong quản lý và sử dụng các nguồn lực của cơ quan, đất nước; kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ pháp luật và các quy định trong quá trình quản lý và sử dụng các nguồn lực của đơn vị; kiểm tra, đánh giá hệ thống thông tin quản lý và hiệu năng của bộ máy quản lý.

Trong những mục tiêu trên, mục tiêu kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực của hoạt động thường được xác định là mục tiêu trọng tâm.

3. Triển khai nhiều hơn các cuộc kiểm toán chuyên đề

Kiểm toán chuyên đề là việc KTNN tập trung kiểm toán những vấn đề được Quốc hội, Chính phủ và xã hội đặc biệt quan tâm như vấn đề quản lý, sử dụng đất đai; quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản; vấn đề bảo đảm an sinh xã hội … Kế hoạch kiểm toán cũng sẽ bám sát và quán triệt đầy đủ các nội dung trọng tâm tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; hạn chế trùng lặp với kế hoạch của Thanh tra Chính phủ, thanh tra chuyên ngành của các bộ, ngành.

Bên cạnh các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, KTNN đã từng bước thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ. Thời gian tới, cần đẩy mạnh kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề theo từng lĩnh vực mà dư luận xã hội đang quan tâm, đặt trọng tâm vào lĩnh vực quản lý như xăng dầu, điện, than, đất đai, phát triển nhà và đô thị, khai thác tài nguyên, khoáng sản, giáo dục và đào tạo, môi trường, đánh giá việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.

Kiểm toán chuyên đề cùng với kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động sẽ tạo dựng lòng tin, duy trì và nuôi dưỡng niềm tin của xã hội, của nhân dân vào một nền tài chính quốc gia lành mạnh, vào một hệ thống ngân quỹ quốc gia được quản lý, được kiểm soát và được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.      
 
KTNN và kiểm toán chuyên đề đưa ra những thông tin và sự đánh giá thông tin có tính pháp lý, có ý nghĩa kinh tế cho việc thảo luận, cho việc đánh giá, phục vụ các quyết định và hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND về kinh tế, về tài chính quốc gia và NSNN. Hiến pháp và luật pháp quy định thẩm quyền của Quốc hội và HĐND trong quyết định và giám sát ngân quỹ, thu chi NSNN. Quyền quyết định, giám sát về tài chính đã trở thành một cán cân quan trọng của quyền lực. Quyền lực này của Quốc hội và HĐND là điều kiện hàng đầu đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Không thể quản lý tốt nền tài chính quốc gia trong sự mập mờ, không minh bạch. Quốc hội và HĐND thảo luận và quyết định công khai không chỉ dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách mà cả việc phân bổ NSNN. KTNN là công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính nhà nước, là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập. Hoạt động KTNN có những đánh giá và xác nhận rất khách quan về thông tin tài chính, ngân sách. Với dự toán và quyết toán NSNN do Chính phủ trình ra Quốc hội, kiểm toán đưa ra đánh giá chính thức về độ tin cậy của thông tin, sự khẳng định từ góc độ chuyên môn về số liệu có thể chấp nhận, những số liệu chưa thể chấp nhận và bằng chứng về những nhận định đó. Chính KTNN, chứ không phải ai khác, đưa ra sự xác nhận về tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách, tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả trong quản lý kinh tế, tài chính, trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Báo cáo kiểm toán của KTNN là một trong những căn cứ quan trọng, không thể thiếu để Quốc hội, HĐND thảo luận, quyết định các vấn đề kinh tế, tài chính và ngân sách; đồng thời cũng là căn cứ để thực hiện các hoạt động giám sát tối cao. Tất nhiên, cần sử dụng các thông tin trên báo cáo kiểm toán sao cho có hiệu quả. Cần tôn trọng quy trình cung cấp thông tin, đánh giá thông tin thật hiệu lực, hiệu quả./.
 
Theo Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 09, kỳ I, tháng 5/2015



 



Xem thêm »